Xem riêng 01 Bài
  #20  
Cũ 11-01-2011, 14:38
hoang.le's Avatar
hoang.le hoang.le vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 09-07-2010
Đến từ: Hà Nội
Bài Viết : 78
Cảm ơn: 2,782
Đã được cảm ơn 783 lần trong 92 Bài
Mặc định 11. Dân tộc Cơ Ho

DÂN TỘC CƠ HO


Tên tự gọi : Cơ Ho.

Nhóm địa phương : Xrê, Nộp (Tu nốp), Cơ Dòn, Chil, Lát (Lách), Tơ Ring (Tring).

Nhóm ngôn ngữ : Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á)

Dân số : 145.857 người (ước tính năm 2003)

Cư trú : Cao nguyên Di Linh (tỉnh Lâm Đồng)

Người Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.

Đặc điểm kinh tế - Hoạt động sản xuất : Sống chủ yếu bằng lúa rẫy và lúa nước. Nhóm Xrê làm ruộng nước và định cư từ lâu theo đúng tên gọi của nó (Xrê là ruộng nước), còn những nhóm khác sống bằng rẫy du canh theo chu kỳ. Công cụ làm rẫy gồm: rìu, dao xà gạc, cuốc xà bát, gậy chọc lỗ… Nhìn chung kỹ thuật và công cụ làm rẫy của người Cơ Ho không khác với các tộc người khác ở Tây Nguyên nhưng riêng nhóm Chil để chọc lỗ tra hạt còn dùng một dụng cụ khác: P'hal. P'hal có cán dài bằng gỗ, lưỡi dẹp bằng sắt khoảng 28 cm và rộng khoảng 3-4cm, được dùng trong trường hợp một người vừa chọc lỗ, vừa tra hạt. Ở vùng người Xrê, công cụ làm đất đặc trưng là chiếc cày (ngal) bằng gỗ, đế bằng, lưỡi gỗ (sau này là lưỡi sắt) và cái bừa răng gỗ (Sơkam). Cày, bừa và cả Kơr (dụng cụ để chang bằng mặt ruộng) đều do hai trâu kéo. Lúa là cây lương thực chính và là cây trồng chủ yếu nhưng thông thường trên một đoạn rẫy người ta còn trồng lẫn cả ngô, sắn, bầu, bí, mướp, đậu... Người Cơ Ho chăn nuôi theo lối thủ công. Từ khi làm ruộng, họ nuôi trâu bò để lấy sức kéo, còn hầu hết các súc vật nuôi để hiến tế trong các lễ nghi. Người Cơ Ho biết làm vườn, trong vườn trồng mít, bơ, chuối, bo bo, đu đủ… Nhiều buôn làng sống định cư và chuyên canh cây cà phê, dâu tằm. Nghề đan lát và rèn hầu như gia đình nào cũng có người làm nhưng nghề dệt chỉ phổ biến ở nhóm Chil. Săn bắn, đánh cá, hái lượm, lâm thổ sản vẫn rất phổ biến.

Tổ chức cộng đồng - Quan hệ xã hội : Mỗi buôn làng của người Cơ Ho thường là bà con họ hàng gần xa với nhau. Làng (bon) là một công xã nông thôn còn mang nặng những dấu vết của công xã thị tộc mẫu hệ. Ðứng đầu một làng là chủ làng (Kuang bon). Ở những nơi dân cư tập trung đông đúc, hình thành một tổ chức liên minh tự nguyện giữa các làng và đứng đầu liên minh gọi là M’đrông. Người Cơ ho vẫn tồn tại hai hình thức gia đình: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Tuy nhiên, gia đình lớn hiện nay đương trong quá trình tan rã và hình thức gia đình nhỏ ngày càng trở nên phổ biến, nhất là những vùng trù phú, ven các đường quốc lộ, gần thị trấn, thị xã... Tổ chức gia đình theo chế độ mẫu hệ.

Hôn nhân gia đình : Người con gái đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Hôn nhân một vợ, một chồng bền vững, đôi vợ chồng sống tại nhà vợ, con cái tính dòng họ theo phía mẹ... Nam nữ thanh niên Cơ Ho xây dựng gia đình khá sớm (nữ thường 16 - 17 tuổi; nam từ 18 - 20 tuổi) và đó chính là một trong những nguyên nhân làm cho mức sinh của người Cơ Ho khá cao, bình quân một phụ nữ sinh khoảng 5 - 6 con.

Văn hóa - Văn nghệ : Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho rất phong phú. Thơ được gọi là Tampla, giàu chất trữ tình và đầy nhạc tính. Có nhiều vũ khúc cổ truyền thường trình diễn trong các dịp lễ hội. Bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr), khèn môi, sáo… là những nhạc cụ cổ truyền với âm sắc độc đáo và có cấu tạo mang bản sắc dân tộc có khả năng hoà âm với lời ca hoặc độc tấu.

Nhà cửa : Người Cơ Ho ở nhà sàn dài, hai mái uốn lợp tranh, có vách phên nghiêng ra ngoài nẹp tranh để chống lạnh và phía trước cửa có cầu thang lên xuống. Vào nhà, trên bức vách phía sau đối diện với cửa ra vào là hàng ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt của gia đình (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra xung quanh bếp lửa.

Trang phục : Ðàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khố là một miếng vải dài 1,5 đến 2 m và rộng, có hoa văn theo dải dọc. Váy là một tấm vải quấn quanh người một vòng và giắt cạp. Nền váy màu đen trên đó có những dải hoa văn màu trắng viền dọc thân váy. Khi trời lạnh, người ta quấn thêm chiếc chăn (ùi). Trang sức là những vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai. Cô gái Cơ Ho thường tập dệt vải từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản phẩm dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai.


Phương tiện vận chuyển : Gùi dùng để đi rẫy, đi chợ, dùng để đựng lúa, ngô... Gùi có loại có nắp, có loại không nắp; có loại cao to dùng cho người lớn, cũng có loại nhỏ thấp dùng cho trẻ em. Nắp gùi có núm được đan khéo đậy rất kín.

Ăn : Các gia đình thường ăn 3 bữa. Trước kia, cơm canh đều nấu trong ống nước và sau này mới được nấu trong nồi đất, nồi đồng và nồi gang. Các món được chế biến khô cho phù hợp với thói quen ăn bốc. Canh là một món rau trộn với tấm thường bỏ thêm ớt, muối, thịt, cá được kho, luộc hay nấu với cây chuối non. Thức uống là nước suối được đựng trong các trái bầu, trong các ghè. Rượu cần (tơrnơm) rất được ưa chuộng trong các lễ tiệc, hội hè, được chế biến từ gạo, ngô, sắn... trộn với các men làm từ các cây rừng. Thuốc hút là những lá thuốc phơi khô quấn lại được nhiều người ưa dùng.

Thờ cúng : Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ xưa làm bằng ván gỗ có chạm trổ hầu như không còn nữa, giờ đây người ra còn nhận ra là chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào. Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và trong quan niệm của họ có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con người và ngược lại cũng có một bên là ma quỷ (Chà) thường hay gây ra những tai hoạ cho nên hầu như làm bất cứ việc gì hay có chuyện gì (làm ruộng, cưới xin, tang ma, ốm đau...) người Cơ Ho thường phải cúng viếng để cầu xin. Người ta tin rằng, các vị thần rất thích ăn thịt và uống rượu nhưng tuỳ theo tầm quan trọng của buổi lễ mà người ta tế sống trâu, heo, dê hoặc gà cùng với rượu. Người Cơ Ho quan niệm có nhiều vị thần: Nđu là thần tối cao sau đến Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa…

Lễ tết : Trong số các lễ nghi của người Cơ Ho, những lễ nghi liên quan đến từng công việc làm rẫy, làm ruộng như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thường xuyên hơn. Có nhiều nghi lễ liên quan đến cây lúa như: Lễ đâm trâu, lễ gieo giống, lễ rửa chân trâu… Lễ đâm trâu (nho sa rơ-pu) là một nghi lễ linh đình, thường được tổ chức sau khi thu hoạch xong mùa màng, chuẩn bị vào mùa rẫy mới (thường là tháng 12 dương lịch). Thường thường, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để làng tổ chức lễ đâm trâu trong dịp này. Lễ được tổ chức ở ngoài trời trước nhà chủ hiến tế, chủ làng hay ở mảnh đất rộng, bằng, cao ráo của làng, với cây nêu được trang trí sặc sỡ, mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu được bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày. Trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong các nghi lễ này, người Cơ Ho dùng nhiều nhạc cụ cổ truyền. Bên bếp lửa và chén rượu cần, già làng kể cho con cháu nghe nhiều sự tích, truyền thuyết, huyền thoại, giảng giải thơ, ca dao về giống nòi và quê hương. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc cần làm như: làm nhà, chuyển làng...

Học : Vào đầu thế kỷ XX, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ la tinh. Mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ biến sâu rộng.

(nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, Cuộc sống Việt)

Bài được hoang.le sửa đổi lần cuối vào ngày 02-02-2011, lúc 15:08
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
7 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hoang.le vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
Đêm Đông (11-01-2011), Dat_stamp (16-04-2012), hat_de (11-01-2011), manh thuong (11-01-2011), Poetry (11-01-2011), thantrongdao (02-02-2011), tranhungdn (16-04-2012)