Quay lại   Diễn đàn/Forum VIET STAMP (VSF) > THẾ GIỚI TEM CHUYÊN ĐỀ > Tôn giáo > Phật giáo

Trả lời
 
Công Cụ Hiển Thị Bài
  #1  
Cũ 23-07-2008, 13:53
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định Chùa Việt Nam trên tem

Chùa

Chùa thường xây ở nơi phong cảnh thanh u, bởi vậy người ta hay tìm nơi gò cao để xây chùa, nếu không người ta cũng tân đất lên cho cao hơn nền thường.

Nhiều làng cất chùa ở những nơi danh lam thắng cảnh thật là rộng rãi đẹp đẽ như chùa Hương làng Yến Vĩ, tỉnh Hà Đông, hoặc chùa Thầy làng Thụy Khê, tỉnh Sơn Tây. Những làng trung du thường xây chùa ở ven sườn núi hay trong hang núi như chùa Láp làng Tích Sơn, tỉnh Vĩnh Yên, chùa Trầm, làng Long Châu, tỉnh Hà Đông .v.v...

Chùa từ ngoài đi vào thường đi qua một sân đất ở trước tam quan. Hai bên có hai hàng phỗng đá hoặc chó đá.

Từ sân đất bước lên tam quan có một bực xây gạch.

Tam quan là một căn nhà ba gian có ba cánh cửa khá rộng, và ba cánh cửa này đều được coi như ba cửa chính, thường đóng quanh năm, trừ những ngày hội hè, sóc vọng hoặc Tết nhất.

Cạnh tam quan về phía tay phải, thường có thêm một cổng bên, cổng này luôn mở trong những ngày thường, và trên cổng này là gác chuông. Cũng có chùa, gác chuông ở trên tam quan. Trên gác chuông có quả chuông lớn. Tăng ni lên thỉnh chuông phải leo một cầu thang có khi xây bằng gạch có khi chỉ là một chiếc thang gỗ.

Nhà tam quan thường chỉ dùng làm nơi cho các hào mục trong làng hội họp khi bàn tính tới việc chùa.

Khỏi tam quan là một lớp sân rộng lát gạch.

Qua khỏi lớp sân này là nhà thờ Phật gồm chính điện và nhà bái đường............

Bài được Bugi5697 sửa đổi lần cuối vào ngày 15-06-2009, lúc 16:01
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
  #2  
Cũ 23-07-2008, 13:54
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Một Cột (Diên Hựu Tự)



Chùa Một Cột nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội, có nguồn gốc từ một giấc mơ lành của vua Lý Thái Tông (1028 - 1054). Theo truyền thuyết, vào năm 1049, một hôm nhà vua nằm mộng thấy Phật Quan Âm dắt Vua lên tòa sen. Tỉnh giấc, Vua đem việc ấy hỏi các quần thần , trong đó có các nhà sư đạo cao đức trọng. Sư Thiền Tuệ khuyên Vua xây chùa, dựng cột đá giữa ao, đặt tòa sen của Phật trên cột như đã thấy trong chiêm bao.

Chùa xây chỉ có một gian gọi là Liên Hoa đài (đài hoa sen) nằm trên một cột đá ở giữa hồ nhỏ gọi là Linh Chiểu tỉnh, nên được gọi là chùa Nhất Trụ (một cột). Ở chùa Long Đọi (Nam Hà) có một tấm bia còn ghi lại sự tích này: "Đào hồ Linh Chiểu, giữa hồ vươn lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa hoa sen nghìn cánh, trên sen dựng tòa điện màu xanh. Trong điện đặt pho tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly".




Chùa nằm trong khu vườn Tây Cấm thuộc thôn Thạch Bảo, huyện Vĩnh Thuận, kinh thành Thăng Long. Khi chùa được khánh thành, các Sư chay đàn, tụng kinh cầu cho Vua sống lâu. Vì thế chùa còn có tên là Diên Hựu (kéo dài cõi phúc).

Hằng năm cứ đến ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, nhà vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, Vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội.





Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa, trước sân dựng một ngọn bảo tháp. Năm 1108. Ỷ Lan phu nhân sai đúc một cái chuông rất to, nặng một vạn hai nnghìn cân, đặt tên là "Giác thế chung" (Quả chuông thức tỉnh người đời). Đây được xem là một trong tứ đại khí - bốn công trình lớn của nước ta thời đó - là : tháp Báo Thiên, chuông Qui Điền, vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm. Giác thế chung đúc xong nặng quá không treo lên được, để dưới mặt đất thì đánh không kêu. Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ, ruộng này có nhiều rùa, do đó có tên Quy Điền chung (chuông ruộng rùa). Đến thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm 1426 Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn đem phá chuông Quy Điền lấy đồng. Quân Minh thua, đất nước ta lại được hưởng nền thịnh trị thái bình nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa.

Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được làm lại năm 1955. Đài hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3m, mái cong, dựng trên cột cao 4m, đường kính 1,20m gồm 2 trụ đá ghép chồng lên nhau liền thành một khối. Tầng trên là là một khung gỗ kiên cố đỡ ngôi đài với mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều nguyệt. Hình dáng ngôi chùa như một đóa hoa sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Đi qua ao theo lối nhỏ lát bằng gạch, ta sẽ đến một cầu thang dẫn lên Phật đài có một tấm biển bằng chữ Hán đề trước cửa: Liên Hoa Đài.


Thiền sư Huyền Quang đã có thơ vịnh chùa Diên Hựu :

Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn
Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt tan
In ngược hình chim, gương nước lạnh
Sẫm đô bóng tháp, ngón tiêu hàn.

(Huệ Chi dịch)

Hoa sen lúc mới nở đã có "quả" lại có "nhân" tượng trưng cho giáo lý nhà Phật. Hoa sen cũng là loài hoa tinh khiết, giữa trần gian mà chẳng nhuốm mùi tục lụy. Chùa Một Cột, vì lẽ đó, là biểu tượng của cõi Thiền "bất nhiễu", "vô ưu". Gắn liền với lịch sử thủ đô, đó cũng là biểu tượng của Hà Nội ngàn năm văn vật.




Ngân hàng Nhà nước đã lựa chọn đồng tiền xu mệnh giá 5.000 đồng làm biểu trưng của Việt Nam để in trên con tem của cơ quan bưu chính Liên hợp quốc.


Theo ông Nguyễn Văn Toản - Phó Cục trưởng Cục Phát hành và Kho quỹ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Cơ quan bưu chính Liên Hợp quốc đã yêu cầu Việt Nam chỉ được chọn 2 biểu trưng cho quốc gia. Nhà nước Việt Nam đã chọn biểu trưng Quốc kỳ và một đồng tiền.



Một mặt của đồng tiền xu mệnh giá 5.000 đồng đang lưu hành.


Vì trên mặt con tem của bưu chính Liên hợp quốc không thể thể hiện hết toàn bộ những đồng tiền trong hệ thống tiền tệ của Việt Nam nên Ngân hàng Nhà nước đã lựa chọn đồng tiền xu mệnh giá 5.000 đồng - đúc hình ảnh của chùa Một Cột.
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #3  
Cũ 23-07-2008, 13:55
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Thiên Mụ

Chùa Thiên Mụ hay còn gọi chùa Linh Tự là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Chùa được dựng trên đồi Hà Khê (thuộc địa phận xã Hương Long) bên tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố khoảng 6 km về phía tây. Tên chùa gắn với huyền thoại bà tiên áo đỏ được lưu truyền rộng rãi. Bởi vậy chùa có tiên là Thiên Mụ (bà tiên trên trời).

Truyền thuyết xưa kể lại rằng: Đồi Hà Khê rất thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên đại tướng tên là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem nơi nào có khí linh thiêng thì tìm cách yểm đi. Cao Biền thấy trên đồi Hà Khê có khí thiêng, bèn đào sau chân đồi để cách mạch đi, khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm đó bỗng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ nhưng mái tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ ngồi dưới chân đồi than vãn, rồi cất tiếng nói to: "Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, thỉnh cầu linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải lo". Người đàn bà ấy nói xong biến mất. Từ đó gò đất được gọi là núi Thiên Mụ.





Khoảng năm 1601, Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong sau khi rời kinh đô Thăng Long đem quân vào đây định kế lâu dài, một hôm đi qua nơi này, thấy địa thế đẹp, hàng dẫy đồi chập chùng như uốn khúc bên sông, đặc biệt thấy một gò cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ, lại nghe sự tích kể trên, ông tự nhận mình là vị chúa được bà tiên nói đến. Ông ra lệnh xây dựng chùa Phật và cho đề chữ "Thiên Mụ Tự" (chùa Thiên Mụ). Từ đó dân chúng đến cầu đều thấy linh thiêng ứng nghiệm.






Về sau, chùa được trùng tu nhiều lần, mỗi lần đều được mở rộng tô điểm thêm. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu và sau Nguyễn Phúc Chu cho đúc một quả chuông lớn nặng tới trên 3 tấn, gọi là Đại Hồng Chung, đây là quả chuông lớn nhất ở Huế, chứng tỏ tài năng của những nghệ nhân đúc đồng rất nổi tiếng ở xứ này. Nguyễn Phúc Chu còn cho dựng một tấm bia đá đặt trên lưng con rùa làm bằng đá cẩm thạch ghi lại việc chấn hưng đạo Phật đương thời. Năm 1815 và 1831, Gia Long và Minh Mạng tổ chức sửa sang và mở rộng chùa Thiên Mụ to đẹp hơn. Năm 1846, Thiệu Trị dựng thêm ngoài Nghi Môn một tháp hình bát giác cao 21 m với bẩy tầng soi bóng trên dòng sông Hương thơ mộng. Tháp thờ đức Như Lai và đức Thế Tôn. Các tầng đều có tượng Phật, tương truyền ngày xưa được đúc bằng vàng, về sau thay bằng đồng, vua gọi là tháp Từ Nhân, sau đổi là tháp Phước Duyên, cảnh chùa lại càng thêm nguy nga tráng lệ.

Xưa, trước tháp Phước Duyên có đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại nền) gồm ba gian, bộ sườn được chạm khắc công phu, tinh xảo, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo). Hai bên đình dựng hai nhà bia, ghi lại việc xây bảo tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyên, bài ký Đại Hồng Chung và bài thơ "Thiên Mụ chung thanh" (Tiếng chuông Thiên Mụ) của vua Thiệu Trị.






Kiến trúc của chùa Thiên Mụ cũng như nhiều ngôi chùa khác ở Việt Nam. Chùa được bao quanh bằng tường đá xây hai vòng. Khuôn viên chùa chia làm hai khu vực. Phía trước Nghi Môn gồm các công trình kiến trúc. Bến thuyền có 24 bậc tam cấp lên xuống Tam Quan và bốn trụ biểu xây sát đường cái. Từ đó theo 15 bậc tam cấp là đến nền đình Hương Nguyên. Phía sau chùa Thiên Mụ là vườn hoa, cây cảnh, sau cùng là vườn thông tĩnh mịch.






Chùa Thiên Mụ từ lâu đã đi vào tâm tư tình cảm của người dân Huế. Tiếng chuông chùa từ bao đời đã gieo vào lòng người một nỗi niềm tha thiết, mến thương.

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương


Ngày nay, chùa Thiên Mụ vẫn luôn là một trong những danh lam thắng cảnh cổ nhất và đẹp nhất của đất Thần Kinh. Du khách mỗi lần đến Huế không thể không đến thăm chùa Thiên Mụ, tham quan tháp Phước Duyên nghiêng mình trên dòng Hương Giang xanh thẳm.
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #4  
Cũ 23-07-2008, 13:56
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Tây Phương




Chùa Tây Phương là một danh lam vào loại tiêu biểu nhất về mặt điêu khắc và tạc tượng trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, được xây dựng khoảng thế kỷ thứ 8. Chùa ở trên ngọn núi Câu Lậu cao chừng 50m thuộc thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, một huyện ngoại thành Hà Nội, cách thủ đô 37 km về phía tây.

Từ chân núi, du khách leo lên 239 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa. Tên chữ là Sùng Phúc Tự hay Hoành Sơn Thiếu Lâm Tự, chùa gồm 3 nếp: toà bái đường, toà chính điện và toà hậu cung (tam bảo), mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái ngói lợp rất công phu, lớp trên là thứ ngói đầu mũi đúc hình lá đề nổi, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa. Xung quanh diềm mái của ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù hợp với triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.

Như vậy chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ XVII - XVIII). Chùa được sửa sang vào những năm 1657 - 1682, được đại tu hoàn toàn vào năm 1794 thời Tây Sơn.

Điều quý giá hơn: nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng.

Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc ta: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo.





Đáng chú ý nhất là bộ tượng tròn gồm 64 pho mà ta thường thấy phiên bản ở các Viện bảo tàng, các cuộc triển lãm mỹ thuật trong nước và ngoài nước, trong số này pho tượng Tuyết Sơn, tượng La Hầu La đáng được xem là thuộc loại đẹp nhất trong tòan bộ nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam.

Các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Thay vì 18 vị La Hán như ở các chùa khác, ở đây có tượng của 16 vị tổ, nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3m, trang nghiêm phúc hậu.

Ngót bảy mươi pho tượng, pho nào cũng được tạc rất công phu, tinh xảo, sinh động từ nếp quần áo đến dáng điệu, nét mặt. Nét mặt các pho tượng chùa Tây Phương biểu lộ niềm vui hoặc nỗi buồn, trạng thái thanh thản hay ưu tư của tâm hồn. Đường nét trên khuôn mặt, vừng trán hay tư thế đứng ngồi đều phản ánh nhiều tình cảm, tâm trạng khác nhau.




Có thể nói đây là cuộc họp mặt của một tập đoàn "Phật sống" toạ thiền, với tất cả nét độc đáo trong tâm tư và phong độ của mỗi vị. Mười sáu vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai. Đằng kia là Phật Tuyết Sơn gầy gò mười hai xương sườn nổi bật đang trầm tư mặc tưởng, phía bên là Phật Di Lặc phốp pháp, bụng to, mắt rộng, miệng tươi cười, hai vị thật đã biểu lộ rõ hai loại chúng sinh: lớp người khổ hạnh, thao thức suy tư, đằng đẵng giữa dương thế, bên cạnh lớp người hể hả, thoả mãn, sung sướng, vô tư.

Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những nghệ nhân dân gian vô danh thời Hậu Lê, thời Tây Sơn đã là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam.
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #5  
Cũ 23-07-2008, 13:56
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Thầy

Nếu chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời ngài Từ Đạo Hạnh thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.

Chùa Thầy dựa vào sườn Tây Nam một ngọn núi đá vôi có nhiều hang động là núi Thầy tức núi Sài Sơn thuộc làng Hoàng Xá, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 30km. Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa".




Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh tu trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ XVII, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu , xây dựng điện Phật, điện Thánh ; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Thủy đình mọc lên giữa Long Chiểu, nơi thường diễn trò rối nước đặc sắc, chính là viên ngọc ở đầu rồng. Hai giếng là hai mắt rồng. Hai cầu cổ có mái ngói do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng năm 1602 là hai răng nanh của miệng rồng: Cầu Nhật Tiên ở bên trái trông vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ giữa ao. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải dẫn vào đường lên chùa Cao trên núi.

Đối diện với thủy đình là chùa Cả được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" gồm 3 nếp nhà dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Nếp ngoài là nhà tiền tế, nếp giữa thờ Phật, nếp trong cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong chùa có đặt 3 pho tượng diễn tả 3 "kiếp" của Thiền sư Từ Đạo Hạnh : Tăng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn lắp máy tự động có thể đứng lên ngồi xuống được, nhắc nhở thời kỳ Ngài đi tu ở Hương Hải am đã làm thuốc trị bệnh cứu người và dày công sáng tạo môn nghệ thuật múa rối nước cổ truyền để cho dân giải trí. Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.




Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán.

Đường qua cầu Nguyệt Tiên dẫn đến những bậc đá đi lên núi, nơi có chùa Cao vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.

Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,? trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ giữa thiên nhiên khoáng đạt như hình ảnh trong bài thơ của Nguyễn Khuyến :

Hóa công xây đắp biết bao đời
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời
Buổi sớm gió tuôn, trưa nắng gắt
Ban chiều mây họp tối trăng chơi
Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn
Giãi thủ giang sơn bốn mặt ngồi
Bán lợi mua danh nào những kẻ
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.

Theo lối mòn ven núi, leo lên vài chục bậc đá nữa sẽ đến hang Cắc Cớ, nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại:

Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

Từ hang Cắc Cớ, một con đường có nhiều cây đại thụ dẫn lên đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u và hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.

Ở chân núi Thầy, về phía Tây có chùa Bối Am còn gọi là chùa Một Mái, vì chùa chỉ có một mái lợp bằng ngói, còn mái kia chính là vòm hang.

Nét độc đáo của thắng cảnh chùa Thầy là ở sự kết hợp giữa những con đường, những mái chùa vươn lên tầm cao, với những vẻ đẹp của hồ nước trải rộng và những bí ẩn trong chiều sâu lòng đất. Cả ba chiều không gian đó kết tụ lại trong một quần thể thiên nhiên đa dạng về kiến trúc và màu sắc. Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba âm lịch hàng năm, là dịp để con người chiêm bái danh lam thắng cảnh này. Trong ngày hội, nhiều Tăng Ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.

Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở cả nước ngoài. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở.
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #6  
Cũ 23-07-2008, 13:57
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Keo

Hằng năm vào ngày mùng bốn tháng giêng âm lịch, nhân dân làng Keo xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng.

Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 100 ngày Thiền sư Không Lộ (1016 - 1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (Ngài qua đời ngày 3 tháng 6 âm lịch). Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trên con sông Trà Linh ngang trước chùa chảy ra sông Hồng, người đi hội đổ về xem cuộc thi bơi trải, thi kèn trống, thi bơi thuyền và biểu diễn các điệu múa cổ. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng : hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.

Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.


Nếu có dịp về thăm chùa Keo, thì du khách hãy đến vào hội mùa thu. Từ thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng đi khoảng 10km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Linh bồi đắp.





Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ năm 1630 đến năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ.

Nhưng lịch sử của ngôi chùa thì có bề dày đến hơn 9 thế kỷ. Theo sách Không Lộ Thiền Sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi : một nửa dời về Đông Nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Hà) ; một nửa vượt sông đến định cư ở phía Đông Bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.

Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng đến 58.000 m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 ông trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu thế kỷ XVI. Sau đó là chùa thờ Phật, gồm 3 ngôi nhà nối vào nhau. Trong cùng là tòa gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá.





Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời Hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Tầng trên treo khánh đá 1,20m và chuông đồng cao 1,30m, đường kính 1m đúc vào đời Lê Hy Tông (1686) ; hai tầng trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69m đúc vào năm1796.

Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng, chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Theo sách Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu, Thiền sư Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch. Sau đây là một bài thơ Thiền của Không Lộ có đề tài ngư nhàn :

Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền.


Nghĩa là :

Bát ngát sông xanh, bát ngát trời
Một thôn mây khói, một dâu gai
Ông chài ngủ tít không người gọi
Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi.


(Ngọc Liễn dịch)

Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay lên không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn, hổ. Truyền thuyết còn kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng, Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.

Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên chấp sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn chay, mặc quần áo mới, họ rước Thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm và tô son lại cho tượng Thánh. Công việc này phải làm theo một nghi thức được qui định rất nghiêm ngặt, những người chấp sự phải tuyệt đối giữ kín những gì đã thấy trong khi trang hoàng tượng Thánh.

Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #7  
Cũ 23-07-2008, 13:57
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc Tự).

Đi lối cầu Đuống theo đường đê hữu ngạn hoặc rẽ trái từ ga Phú Thụy trên đường đi Hải Phòng, khoảng 15km, du khách sẽ đến xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc - trước kia là làng Á Lữ, xã Nhạn Tháp, huyện Siêu Loại - nơi có chùa Bút Tháp nằm giữa cánh đầng nhìn về phía Nam.




Chùa có tên là Ninh Phúc Tự. Khi Thiền sư Huyền Quang đến tu tại đây, ông đã cho xây tháp cao 9 tầng trang trí hình hoa sen , nhưng ngọn tháp đó ngày nay không còn nữa. Tháp Báo Nghiêm mang hình dáng quản bút khổng lồ vươn lên trời cao mà chúng ta thấy ngày nay được Thiền sư Minh Hành (1596-1659) dựng năm 1647. Năm 1876 tháp này được vua Tự Đức đặt tên là Tháp Bút, ngôi chùa từ đó mang tên Bút Tháp. Tháp xây bằng đá ghép, có 5 tầng, hình 8 cạnh, cao 13,05m, đỉnh tháp hình nậm rượu, giữa các tầng có gờ mái uốn cong. Bệ tháp mỗi bề rộng hơn 3m, có 2 lần tường bao bọc. Lòng bệ tháp đặt tượng Thiền sư Chuyết Công (1590 - 1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Trước phút viên tịch, Thiền sư đọc cho đệ tử nghe bài kệ :

Tre gầy thông vót nước rơi thơm
Gió thoảng trăng non mát mát rờn
Nguyên Tây ai ở người nào biết?
Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn.


(Thích Thanh Từ dịch)

Vua Lê Chân Tông đã sắc phong cho Hòa Thượng Chuyết Công hiệu "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư".

Sau đó, Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, hiệu Pháp Tánh, người làng Á Lữ xin cha là Thanh Đô Vương Trịnh Tráng cho trùng tu lại chùa Bút Tháp ở quê nhà. Bà đã cùng Thiền sư Minh Hành chăm sóc việc trùng tu. Đến khi vua Lê Thần Tông băng hà, Bà đã về tu hẳn ở chùa.





Phong cách kiến trúc đời Hậu Lê để lại rất rõ nét trên kiến trúc chùa Bút Tháp. Được xây dưng theo kiểu "Nội công ngoại quốc" như chùa Dâu, chùa Bút Tháp có một quần thể kiến trúc bao gồm : tam quan, gác chuông, tòa thiêu hương, thượng điện, cầu đá, tòa Cửu phẩm Liên hoa (Tích thiện am), nhà chung, phủ thờ, hậu đường. Tất cả gồm 10 tòa nhà, nằm trên một trục dài hơn 100m. Bên trái chùa là nhà tổ và tháp Báo Nghiêm. Lùi về phía sau có tháp Tôn Đức. Xung quanh tòa thượng điện là hàng lan can đá gồm 36 phiến chạm trổ tinh vi những cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước với hình ảnh cò bay trên đầm sen, cá lội, trẻ chăn trâu và một số điển tích khác như cá hóa rồng, tứ linh, tứ quí, Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh...

Bước vào tòa thượng điện, cảm xúc về cái trác tuyệt hiện lên khi ta đứng trước tác phẩm điêu khắc nổi tiếng: tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn.

Tượng Quan Âm cao 3,70m bằng gỗ phủ sơn được một nghệ nhân họ Trương tạc vào năm 1656. Tượng có 11 khuôn mặt , 994 tay với 994 con mắt nằm trong lòng mỗi bàn tay. Dưới chiếc mũ hoa sen, khuôn mặt chính diện trang nghiêm mà hiền hòa, hai bên má còn có hai khuôn mặt khác. Lại thêm 8 đầu nhỏ xếp thành hình tháp 3 tầng, trên đỉnh là một pho tượng nhỏ. Trước ngực hai tay chắp lại, sau lưng 40 cánh tay vươn ra hài hòa như hình lá sen, phía ngoài là 952 cánh tay nâng con mắt tạo thành một vòng hào quang. Trên đỉnh tượng là một đôi chim thần đầu người xòe cánh rộng áp vào nhau. Tượng đặt trên tòa sen, do một con rồng vươn lên mặt nước đội đỡ. Bốn góc là 4 pho tượng lực sĩ thân hình vạm vỡ ra sức nâng bệ tượng.

Bao thế kỷ qua, Quan Âm vẫn ngồi đó, nghìn mắt để nhìn thấy mọi trầm luân của trần gian và nghìn tay để sẵn sàng cứu vớt chúng sinh. Chiêm ngưỡng pho tượng, ta có cảm giác như đức Phật nghe được tất cả những âm vang của cuộc đời và truyền cho con người lòng nhân ái khoan dung cùng sự bình thản trong tâm hồn.
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #8  
Cũ 23-07-2008, 13:58
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Đồng

Núi Yên Tử (安子山, 1.068 m) là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam. Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn.Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi... Hành trình lên Yên Tử ngày nay sẽ không vất vả như xưa nữa vì hệ thống cáp treo 1 lên gần Hoa Yên đã hoàn thành năm 2002 và hệ thống cáp treo 2 lên cổng trời (khu vực đỉnh Yên Tử) đã được đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008.

Từ Hà Nội có thể đi xe ô-tô vượt quãng đường 125 km, qua thị xã Uông Bí thì rẽ vào đường Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9 km thì rẽ trái. Có thể lên núi Yên Tử bằng hai cách:
  • Theo đường cáp treo hiện đại vượt quãng đường trên 1,2 km lên tới độ cao 450 m gần chùa Hoa Yên. Với cách này có thể ngắm nhìn toàn cảnh rừng núi Yên Tử từ trên cao với những cây tùng, đại hàng trăm năm tuổi xen lẫn trong những rừng cây xanh tươi và hít thở không khí trong lành.
  • Theo đường đi bộ dài trên 6 km đã được gia cố bởi hàng nghìn bậc đá xếp, len lỏi theo lối mòn vượt qua bạt ngàn cây cỏ, dưới tán rừng trúc, rừng thông.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với một cây cầu đá xanh nối hai bờ suối. Cầu dài 10 m, có kiến trúc không cầu kỳ nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Tục truyền xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi tìm đến cõi Phật. Vua Nhân Tông có rất nhiều cung tần và mỹ nữ. Họ đã khuyên ông trở về cung gấm nhưng không được nên đã lao mình xuống suối tự vận. Vua Nhân Tông thương cảm cho họ nên lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan, từ đó con suối mang tên Giải Oan.

Trước sân chùa sum suê từng khóm loa kèn màu hoàng yến chen lẫn màu trắng mịn, xung quanh chùa có 6 ngọn tháp, lớn nhất là tháp mộ vua Trần Nhân Tông, hai bên là tháp mộ sư Pháp Loa và sư Huyền Quang.

Tiếp đó tới chùa Hoa Yên nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử. Phía trên độ cao 700 m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi. Sau điểm này là chùa Đồng, tọa lạc trên đỉnh Yên Tử cao 1.068 m. Chùa được khởi dựng vào thời nhà Hậu Lê với tên gọi Thiên Trúc tự (天竺寺). Đầu năm 2007, chùa Đồng mới được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất (cao 3 m, rộng 12 m², nặng 60 tấn) đã được đưa lên đỉnh Yên Tử.
Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông Bạch Đằng.




Dọc đường còn có một số điểm tham quan như Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà đức Điếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh. Đây là công trình thiền viện lớn nhất Việt Nam.

Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng và kéo dài hết tháng 3 (âm lịch).
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #9  
Cũ 23-07-2008, 13:58
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Cầu - Hội An

Cầu Chùa là chiếc cầu trong khu đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam. Cầu còn có tên gọi Cầu Nhật Bản hay Lai Viễn Kiều.



Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầu Nhật Bản, tuy kiến trúc đậm nét Việt Nam. Theo truyền thuyết, ngôi chùa được coi như là một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật mamazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu.



Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn, với ý nghĩa là "bạn phương xa đến".
Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa có lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này.
Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986.



Chiếc cầu dài khoảng 18 m, có mái che, vắt cong qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú.
Chùa Cầu là một trong những di tích có kiến trúc khá đặc biệt. Mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ HánLai Viễn Kiều. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (có lẽ được xuất phát từ nghĩa cây cầu xây từ năm thân, xong năm tuất). Tương truyền đó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp.
Có câu thơ về Chùa Cầu:
Ai đi phố Hội Chùa Cầu Để thương để nhớ để sầu cho ai Để sầu cho khách vãng lai Để thương để nhớ cho ai chịu sầu. Hình Cầu Chùa có trên tờ bạc 20.000 nghìn đồng bằng polyme của Việt Nam.


Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
beta123 (05-11-2008)
  #10  
Cũ 23-07-2008, 13:59
Bugi5697
Khách
 
Bài Viết : n/a
Mặc định

Chùa Láng

Chùa Láng có tên chữ là Chiêu Thiền Tự với ý nghĩa rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Ngày 7 tháng 3 âm lịch là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, trở thành ngày hội chùa Láng.

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy


Chiêu Thiền Tự nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 7km về phía Tây. Xưa kia chùa dựng trên một địa thế rất đẹp nằm giữa cánh đồng bao la, chung quanh có những cây muỗm và cây đa cổ thụ khiến cho cảnh chùa thêm u tịch. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa thế kỷ XIX với vẻ cổ kính vẫn còn giữ được của một danh lam từ tám thế kỷ trước.




Nét độc đáo đầu tiên đập vào mắt du khách là cổng chùa hao hao giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa: đó là một hàng bốn cột hoa kiểu bằng gạch với ba mái cong thanh thoát. Ba mái này không phủ lên đỉnh cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên. Sân chùa lát gạch Bát Tràng, nối cổng chùa với cửa tam quan. Qua tam quan là một con đường rộng lát gạch, hai bên có tường hoa dẫn tới Bát giác đình, nơi ngày hội đặt tượng Thánh cho dân làng làm lễ dâng hoa. Trong cùng là chùa chính bao gồm tiền đường, tòa thiêu hương, thượng điện, hành lang, nhà tổ, tăng phòng và các gian nhà phụ.

Vẻ bề thế của quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng với không gian thoáng đãng khiến cho chùa Láng đã từng được coi là đệ nhất tùng lâm ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.

_______________________________
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
quocviet (09-12-2008)
Trả lời

Công Cụ
Hiển Thị Bài

Quyền hạn của Bạn trong mục này
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

BB code đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến:

Những Đề tài tương tự
Ðề Tài Người Tạo Đề Tài
Chuyên Mục
Trả Lời Bài Mới Nhất
Ca Dao Về Những Ngôi Chùa HanParis Văn hóa - Giáo dục - Tri thức 6 24-03-2015 17:59
Em Đi Chùa Hương HanParis Nước Việt mến yêu 0 13-09-2013 15:33
Chùa Một Cột trên tem VN Nguyễn Thành VS Di sản Văn hóa 3 24-05-2013 17:25
Thăm chùa Horyu-ji, ngôi chùa gỗ cổ nhất Nhật Bản stamp-history Di sản Văn hóa 2 22-05-2012 22:12
Angkor - Xứ Chùa tháp. Angkor Cuộc sống đó đây 0 21-05-2010 10:29



©2007-2024 Diễn đàn Viet Stamp
Cơ quan chủ quản: Câu lạc bộ sưu tập tem Viet Stamp (VSC)
Giấy xác nhận cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến số 87/GXN-TTĐT
do Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử cấp ngày 31-08-2011
Chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Anh Thi - Chủ nhiệm VSC
Bản quyền thuộc VSC. Địa chỉ: 2/47 Phan Thúc Duyện, Phường 4, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Điện thoại: (08) 38111467 – Website: vietstamp.net.vn – Email: vietstamp.net@gmail.com – Hotline: 0918 636 791
Vui lòng ghi rõ nguồn “Viet Stamp” khi phát hành lại thông tin từ diễn đàn này.
--------------------
Mã nguồn: vBulletin v3.8.3 & Copyright © 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.
Diễn đàn Viet Stamp có giấy phép sử dụng từ Jelsoft Enterprises Ltd.