Quay lại   Diễn đàn/Forum VIET STAMP (VSF) > GIẢI TRÍ - THÔNG TIN TỔNG HỢP > Lang thang lượm lặt > Linh tinh... lang tang...

Trả lời
 
Công Cụ Hiển Thị Bài
  #1  
Cũ 28-01-2009, 08:54
trithuc_nguyen's Avatar
trithuc_nguyen trithuc_nguyen vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
Tem Không Răng
 
Ngày tham gia: 02-12-2007
Đến từ: Biên Hoà-Đồng Nai
Bài Viết : 1,469
Cảm ơn: 926
Đã được cảm ơn 6,731 lần trong 1,387 Bài
Mặc định Tiểu thuyết lịch sử:"Thăng Long nổi giận"

SƠ GIẢN PHẢ HỆ NHÀ TRẦN

Để bạn đọc tiện theo dõi các nhân vật trong truyện, tác giả tạm sắp xếp một giản yếu tới tối giản về phả hệ nhà Trần.
Song có một điều lộn xộn cần nói, đó là việc hôn nhân của họ Trần. Vì muốn giữ gìn sự trường tồn của dòng họ, nhà Trần nghiêm cấm con trai, con gái kết hôn với người ngoại tộc. Cho nên, bạn đọc sẽ thấy anh em con chú bác ruột lấy nhau như cặp Trần Thủ Độ (Thái sư) lấy Trần Thị Dung (Linh từ quốc mẫu)
Cô cháu ruột lấy nhau như cặp Thiên Thành công chúa (em ruột Trần Liễu, Trần Cảnh) lấy Trần Quốc Tuấn (con Trần Liễu).
Chị em con chú con bác trực hệ lấy nhau: Khâm từ, Tuyên từ (con gái Trần Hưng Đạo) lấy Trần Nhân tông (con trai Trần Thánh tông). Vân vân và v.v…
Tuy nhiên, việc cấm kết hôn với người ngoại tộc chỉ có hiệu lực trong một hai triều đại đầu của nhà Trần, tới các triều sau, việc đó nhạt dần đi.
Và chưa nghe có vụ nào làm nghiêm (tức trị tội) đối với các cuộc hôn nhân dị tộc. Ngay Trần Minh tông cũng lấy hai người cô ruột của Hồ Quý Ly về làm phi.
Dẫu sao, đây cũng là một cuộc đại loạn luân mà lịch sử từng biết đến và không có gì có thể biện minh được.
Trong phả hệ này, tôi sẽ không thống kê đầy đủ mỗi đời vua sinh được mấy hoàng tử, mấy công chúa, mà chỉ đề cập tới những người nổi tiếng trong lịch sử và là nhân vật của tiểu thuyết. Ví như Trần Thái tông riêng con trai sinh được 6 người. Trong phả hệ này tôi chỉ kể có 5. Các vị khác cũng vậy.
Và sau rốt, phả hệ tối giản này dùng cho cả 4 tập: Bão táp cung đình; Thăng Long nổi giận; Huyền Trân công chúa; Vương triều sụp đổ.

Coi như ta chấp nhận gia hệ nhà Trần bắt đầu từ cụ Trần Hấp.
TRẦN HẤP sinh TRẦN LÝ.
TRẦN LÝ sinh TRẦN THỪA.
TRẦN THỪA sinh TRẦN LIỄU và TRẦN CẢNH
Do sự tế vi của thời thế khi nhà Trần làm cuộc đảo chính, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nên Trần Cảnh là em lên ngôi vua, còn Trần Liễu lúc ấy đã trưởng thành mà không được tức vị, từ đó nảy sinh mâu thuẫn khá sâu sắc trong hai dòng trưởng và thứ âm ỉ lâu dài.
CHI TRƯỞNG :
TRẦN LIỄU sinh:
- TRẦN QUỐC TRUNG còn gọi là TRẦN TUNG có pháp danh TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ.
- TRẦN QUỐC TUẤN tức HƯNG ĐẠO VƯƠNG.
- TRẦN VŨ THÀNH tức VƯƠNG DOÃN. Trần Quốc Tuấn sau làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân sự, tương đương với chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh quân đội ngày nay. Trần Quốc Tuấn sinh được bốn người con trai, đồng thời là bốn danh tướng:
- Hưng Vũ vương TRẦN QUỐC NGHIỄN.
- Hưng Trí vương TRẦN QUỐC HIẾN.
- Hưng Hiếu vương TRẦN QUỐC UẤT.
- Hưng Nhượng vương TRẦN QUỐC TẢNG.
Trong lịch sử đã có một giai đoạn khá dài nhầm lẫn, coi Trần Quốc Tảng là Tuệ Trung Thượng sỹ. Sự thật Thượng sỹ là bác ruột của Quốc Tảng.

CHI THỨ :
TRẦN CẢNH lên ngôi vua miếu hiệu là Trần Thái tông.
TRẦN CẢNH (Trần Thái tông) sinh:
- TRẦN QUỐC KHANG. (Bà Thuận Thiên là vợ thứ của Trần Liễu, khi đã có chửa Quốc Khang được hai tháng, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung ép Trần Cảnh (Thái tôn) phải cướp lấy. Do vậy khi Quốc Khang lớn lên không được truyền ngôi).
TRẦN HOẢNG (Trần Thánh tông).
TRẦN QUANG KHẢI.
TRẦN ÍCH TẮC.
TRẦN NHẬT DUẬT.
Các con của Trần Thái tông đều là những bậc danh tướng văn võ toàn tài, sử sách không ngớt lời ca ngợi, trừ Trần Ích Tắc trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ II (1285 - 1286) đem cả nhà đi đầu hàng quân xâm lược, sau chúng đưa về Yên Kinh rồi chết già ở đó.
Trần Thái tông còn có nàng công chúa út nổi tiếng trong lịch sử là AN TƯ.
TRẦN HOẢNG (Trần Thánh tông) sinh:
TRẦN KHẨM (Trần Nhân tông).
TRẦN NHÂN TÔNG sinh:
TRẦN THUYÊN (Trần Anh tông).
Trần Nhân tông còn có người con gái út là công chúa HUYỀN TRÂN, gả cho vua Champa, mà sính lễ gồm cả hai châu: Ô, Lý (miền đất Trị - Thiên ngày nay).
TRẦN ANH TÔNG sinh
TRẦN MẠNH (Trần Minh tông có 11 người con trai).
TRẦN MINH TÔNG sinh:
TRẦN VƯỢNG (Trần Hiến tông).
TRẦN HẠO (Trần Dụ tông).
TRẦN PHỦ (Trần Nghệ tông).
TRẦN KÍNH (Trần Duệ tông).
Trần Minh tông còn có người con nữa là CUNG TÚC ĐẠI VƯƠNG NGUYÊN DỤC, lấy vợ là đào hát chèo đã có mang sẵn. Nguyên người này là vợ của người phường hát chèo Dương Khương. Sau đẻ ra Nhật Lễ. Khi Dụ tông mất, bà thái hậu phò Nhật Lễ lên ngôi. Chưa được một năm thì những người trong tôn thất nổi lên như Trần Phủ, Trần Kính, Trần Nguyên Đán (Nguyên Đán là cháu trực hệ bốn đời của Trần Quang Khải) và công chúa Thiên Ninh (con Trần Minh tông) diệt Nhật Lễ, lấy lại ngôi vua.
Trần Kính (Trần Duệ tông) còn có người con là Trần Hiện. Duệ tông chết trận tại thành Chà Bàn (Champa). Trần Nghệ tông cho cháu là Trần Hiện lên ngôi vua.
Sau vì có ý bài xích Hồ Quý Ly, nên Quý Ly xúi Nghệ tông phế truất rồi buộc phải thắt cổ tự tử.
Trần Nghệ tông có người con là Ngự Câu vương Húc theo chú là Trần Duệ tông sang đánh Champa, bị Chế Bồng Nga bắt làm con tin. Một người nữa là thiếu úy Trang Định vương Ngạc bị Hồ Quý Ly giết. Và sau rốt người con út là Trần Ngung (con rể của Hồ Quý Ly). Sau khi phế truất Trần Hiện, Ngung được đặt lên ngôi vua, hiệu là Trần Thuận tông.
Hồ Quý Ly ép Trần Thuận tông đi tu rồi bức tử. Đem con của Thuận tông là hoàng tử Án 3 tuổi lên ngôi vua, hiệu là Trần Thiếu đế. Hơn một năm sau (1400), Hồ Quý Ly phế Án (cháu ngoại), tự lập mình lên ngôi vua. Vậy là nhà Trần diệt, nhà Hồ lên.

CHƯƠNG 1 :


Vừa bước vào tới cửa cung Thánh từ, vua Trần Nhân tôn đã sụp lạy:
- Trình phụ hoàng.
Thượng hoàng Trần Thánh tôn vừa nhận ra con có điều gì không bình thường, liền nói:
- Ta miễn lễ, chẳng hay có chuyện gì cáo cấp mà quan gia phải vào cung đang buổi thiết triều?
- Bẩm phụ hoàng, vì có việc cơ mật, khẩn cấp, con đã cho bãi triều.
- Việc gì vậy?
- Tâu, người của ta lấy được tin từ Yên Kinh về nói rằng: Hốt-tất-liệt vừa lập An Nam tuyên úy ty, cử Bột-nhan Thiết-mộc-nhi làm tham tri chính sự An Nam tuyên úy sứ đô nguyên súy. Sài Thung và Khu-ghê làm An Nam phó đô nguyên súy. Lại cho lập triều đình bù nhìn. Y giữ đoàn cống sứ của ta lại. Phong chánh sứ Trần Di Ái làm An Nam quốc vương. Lê Mục làm An Nam học sĩ, Lê Tuân làm thượng thư. Lại sai Sài Thung dẫn bọn này quay về Thăng Long và cho năm ngàn quân hộ tống. Trong đám quân ấy có một ngàn người Mông Cổ, còn bốn ngàn tên kia là quân tân phụ. Tiền quân của chúng đã tới Quảng Tây.
( - Theo chế độ nhà Trần thì Đông cung thái tử đã lớn, nhà vua trao cho ngôi báu, rồi lui về ở cung Thánh từ để giám sát công việc. Những năm đầu của vua mới lên ngôi, thực chất các việc lớn trong triều vẫn do vua cha quyết định. Đây là chế độ kèm cặp mang tính thực tập rất đáng lưu ý trong việc dùng người của nhà Trần.
- Quan gia: Đại danh từ chỉ nhà vua. Nguồn gốc: năm đời Đế lấy thiên hạ làm của công gọi là Quan; ba đời Vương lấy thiên hạ làm của nhà gọi là Gia.
- Yên Kinh tức Bắc Kinh ngày nay, cũng gọi là Đại-đô, nơi hoàng đế Hốt-tất-liệt nhà Nguyên lấy làm kinh đô.
- Quân tân phụ: Chỉ quân miền nam Trung Quốc-vùng đất Mông Cổ mới chinh phục.)
Thượng hoàng hơi biến sắc. Không biết vì giận bọn Trần Di Ái ngu tối, ươn hèn hay căm uất bè lũ Hốt-tất-liệt. Ngài nói:
- Vậy là chúng đã biến nước ta thành quận huyện của chúng. Quân cẩu trệ. Bước ra khỏi long án, thượng hoàng dằn từng bước chân nặng trịch trong nội tẩm. Đoạn ngài quay lại hỏi Nhân tôn:
- Quan gia khu xử việc này ra sao?
- Bẩm, con đã có chiếu thư cho bá phụ Hưng Đạo vương phải đón đánh bọn này ngay khi chúng đặt bước chân đầu tiên vào đất ta. Và bắt cho được bè lũ phản bội Trần Di Ái để trị tội.
- Thế còn Sài Thung thì sao? Bang giao hai nước căng thẳng. Nếu ta để Sài Thung chết trong đám loạn quân, Hốt- tất liệt ắt có cớ cất binh ngay. Việc này phải cân nhắc kỹ lắm. Vạn bất đắc dĩ không tránh được can qua, thì cũng gắng nhẫn nhịn để còn trù liệu binh lương.
- Tâu phụ vương, con chắc là Sài Thung với danh nghĩa sứ giả, y sẽ đi trước, còn bọn kia núp bóng theo sau. Về đoàn sứ giả, con đã cử thúc phụ Chiêu Minh vương, tướng quốc thái úy (Trần Quang Khải)lên tận biên ải tiếp rước y về Thăng Long. Và cũng giám sát không cho y nghênh ngang dò xét nội tình nước ta từ biên thùy vào nội địa.
Thánh tôn vụt mỉm cười:
- Hai việc ấy, giao cho hai người ấy, ta yên tâm. Vương nhi quả là sáng suốt.
Nhận được chiếu thư của nhà vua, Hưng Đạo vương cho triệu các con về bàn việc phụng chỉ. Bởi từ lâu nay, mạn đông và đông bắc, triều đình giao hẳn cho cha con đại vương trấn giữ. Khi các vương tử đã tề tựu đông đủ, đại vương bèn nói:
- Nay Hốt-tất-liệt đã bình định xong Trung Quốc, đặt nền thống trị và đổi quốc hiệu là Đại Nguyên rồi. Mộng bá chủ gầm trời của y là không gì cản được. Ngọn cờ xâm lược đang trỏ về phương nam, mà Đại Việt ta là chặng đường tiến quân chinh phục đầu tiên của y. Lẽ ra, sau trận thắng ở Nhai Sơn (Trận quyết chiến chiến lược của Hốt-tất-liệt tiêu diệt toàn bộ triều đình nhà Nam Tống), Hốt-tất-liệt đã kéo đại binh sang ta. Ngặt vì tướng sĩ sau nhiều năm chinh chiến ở Trung Nguyên đã mỏi mệt, y còn phải chỉnh bị lại. Vả chăng y cũng muốn giương oai gài bẫy răn đe để các nước nhỏ quy phục, hơn là phải cất quân đánh dẹp. Nay ta được mệnh vua ủy thác, phải xua tan đạo binh năm ngàn tên do nhà Đại Nguyên cử đi hỗ trợ sứ đoàn Sài Thung, dẫn bọn phản bội Trần Di Ái - bù nhìn quốc vương do Hốt-tất-liệt sách phong về nước. Vậy theo ý các con, ta dẹp bọn này thế nào cho êm thuận. Vừa giữ được chủ quyền quốc gia, vừa không để cho kẻ kia vin cớ cất quân.
Các con của đại vương có mặt đầy đủ. Trước hết là trưởng tử Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, bấy lâu nay vẫn cùng đại vương ở đại bản doanh vùng Kiếp Bạc - Bình Than. Tiếp đến là Hưng Trí vương Trần Quốc Hiến; Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất trấn giữ suốt một dải biên ải từ cực đông đến đông bắc. Sau rốt là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, trấn ngự cả một vùng biển đông bắc từ Ngọc Sơn đến Vân Đồn, Hạ Long.
Đại vương là một bậc trí tuệ, nghiêm cẩn, nên người giáo dưỡng các con theo nền nếp cực kỳ thâm viễn. Đại vương thường dậy các con thấu đáo đạo làm người, trước khi học đạo làm tướng.
Các vương cũng biết rõ tính cha, nên trước khi nói ai cũng phải suy nghĩ cho cạn nhẽ. Và ai cũng biết rằng, trong những cuộc nghị bàn như thế này là bàn việc quân cơ, việc lớn quốc gia. Sa xẩy là đại vương chiếu quân pháp trị tội, chứ không mảy may xen lẫn tình phụ tử mà châm chước.
Đại vương đưa mắt nhìn các con. Phút im lặng nặng nề khiến không khí như ngột ngạt. Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng vốn tính bồng bột, ưa hành động hơn là suy ngẫm, vừa mấp máy môi, toan nói. Nhưng chợt nhìn thấy gương mặt cha vẫn trầm mặc và các huynh vẫn điềm nhiên, vương hơi chột dạ. Và suy nghĩ: “Việc dễ như trở bàn tay. Phục binh bất ngờ diệt gọn. Chém đầu Sài Thung ném trả Hốt-tất-liệt cho y bớt tính ngông cuồng. Treo cổ Trần Di Ái ở kẻ chợ, để làm gương cho những tên phản bội đê hèn...”.
Triền miên với những suy tư đầy tức giận bởi cách cư xử hỗn xược của triều đình nhà Nguyên, Trần Quốc Tảng bực bội nói với mình: “Thân làm tướng. Gặp giặc là đánh. Có gì đâu mà các vương huynh phải nghĩ lâu thế Chẳng nhẽ ta là tướng thủy, xin lên đánh bộ, phụ thân lại quở : mạn xược”.
Khí giận toát ra ngoài khiến vẻ mặt Trần Quốc Tảng không vui.
Giây lâu, Hưng Vũ vương Nghiễn lên tiếng:
- Bẩm đại vương, việc này không lớn nhưng cực kỳ khó.
Hưng Đạo vương gật gật mái đầu đốm bạc, nét mặt có vẻ tươi nhuần, người giục:
- Vương nói rõ ý con, ta nghe đây.
- Trình đại vương, con nói việc này không lớn, là bởi chỉ có năm ngàn tên quân Mông - Thát vào cõi ta. Một đạo binh nhỏ của chú Hưng Trí vương Hiến, hoặc Hưng Hiếu vương Uất là quét sạch. Nhưng nó lại dính đến cái sứ đoàn nhà Đại Nguyên, do tên cáo già Sài Thung cầm đầu. Theo y có cả một triều đình bù nhìn do Hốt-tất-liệt nặn ra. Việc này làm không khéo sẽ chọc giận con sư tử Hốt-tất-hệt nổi máu điên khùng, kéo đại binh sang giày xéo núi sông ta. Biết mưu kẻ kia thâm hiểm, nên thượng hoàng và nhà vua mới ủy thác cha và chú Chiêu Minh trông nom cho kín nhẽ.
Hưng Đạo vương vuốt chòm râu cứng tới ba lần rồi cười lớn:
- Khá khen cho con, không những vũ dũng mà còn có mưu sâu. Người thong thả nhấn thêm: - Phát lộ được mưu kẻ địch còn ẩn tàng, tức là con đã biết rõ gan ruột nó. Lướt nhìn các con một lượt, đại vương chậm chạp vuốt râu và thong thả nói tiếp: - Người làm tướng, không phải như thiên lôi chỉ đâu đánh đấy. Người làm tướng - Đại vương nhấn thêm - không phải chỉ biết đánh, mà phải biết thắng một cách nhàn hạ, không nhọc sức quân, không hao tổn máu xương sĩ tốt. Nhìn thẳng vào người con út, lúc này mang vẻ mặt buồn thiu, Đại vương nói như an ủi, như trách móc:
- Hưng Nhượng vương Tảng, ta lấy làm tiếc, con học nhiều, đọc rộng mà con vẫn chưa định được cái tâm, chỉnh được cái ý. Tính con nôn nóng, bồng bột, nếu con không ẩn nhẫn để sửa mình, ta e con khó thâu được thành tựu.
Trần Quốc Tảng nghe cha nói, giật mình kinh sợ, mồ hôi toát đẫm sống lưng. Vương thầm nhủ: “Vậy là cha biết cả tim óc ta”.
Lại nhìn Hưng Vũ vương Nghiễn, đại vương chậm rãi:
- Việc này ta phó thác cho con lo liệu. Con nên cẩn trọng. Ngoài sứ đoàn Sài Thung ra, không cho một tên quan quân nào khác trong đoàn hộ tống lọt được vào đất ta. Con nên nhớ, chỉ cần cản không cho lũ kia sang đất ta, chứ không cần sát hại chúng. Bõ bèn gì vài ngàn tên giặc. Đây là ván cờ bang giao, không được để xảy ra điều gì sai quấy.
Vương đột ngột ngừng lời. Đôi mắt vương bỗng sáng quắc. Vương như đang trương nhãn lực nhìn cho thấu một vật gì đó qua màn sương mờ đục. Rồi cất cao giọng, vương nói:
- Gấp gáp lắm rồi. Cứ như ta suy ngẫm qua cung cách chèn ép, bức bách của nhà Nguyên, thì Đại Việt tiếp sứ Nguyên lần này có nhẽ là lần trót chăng? Cho nên việc canh phòng trên biên ải, cũng như việc thông đạt tin tức từ biên cương về bản doanh ta, không được lơi lỏng, trễ nải. Các hỏa điểm, củi đóm lúc nào cũng phải đầy đủ, ngay cả khi trời mưa bão. Còn các trạm, phải luôn luôn có ngựa tốt, để hễ có tin gì, là các kỵ sĩ có thể lên đường ngay được.
Ngày mai ta về Thăng Long, để xem vua tôi nhà Nguyên giở thêm trò gì nữa. Yết Kiêu đi cùng ta. Dã Tượng lo luyện tốt đội tượng binh, đội thần nỗ giúp ta. Các con cố gắng hoàn thành trách phận. Xong việc, ta sẽ có thưởng.
Nói xong, vương đứng dậy đi về phía tàu ngựa. Con tía mật thấy vương đi qua, nó hí lên một hồi dài, rồi lúc lắc bờm và gại móng, khiến vương phải dừng lại.



CHƯƠNG 2 :


Khi sứ đoàn của Sài Thung đến phủ Tư Minh(Nay là huyện Ninh Minh thuộc Quảng Tây, Trung Quốc) thì đội quân hộ tống An Nam quốc vương Trần Di Ái, theo lệnh thiên tử nhà Đại Nguyên Hốt-tất-hệt đã hạ trại ngoài cổng thành chừng năm dặm.
Nom đám lều trại, ngựa chiến, ngựa thồ của một ngàn quân Mông Cổ sắp đặt ngay ngắn tề chỉnh, khí giới lương thảo đâu vào đó, Sài Thung lấy làm hài lòng. Và đám quân tân phụ bốn ngàn tên lấy từ quân bản bộ của lộ Quảng Tây, cũng hạ trại liền sau đó. Sài Thung có cảm giác khó chịu thấy lũ quân người phương Nam - đồng bào của y lờ mờ dưới những chóp nón tre đan rộng vành, mặt mũi đứa nào đứa ấy buồn thiu, ủ rũ không hồn như lũ lính ma trơi. Với lòng khinh ghét, Sài Thung không thèm nhìn đám quân tân phụ, mà đi thẳng vào khu lều trại quân Mông Cổ. Viên lễ bộ thượng thư người Hán, được vua nhà Đại Nguyên sủng ái, cất nhắc vào chức An Nam phó đô nguyên súy. Vì Sài Thung từng lãnh chức chánh sứ sang Đại Việt nhiều lần: vừa quen thung thổ, vừa am tường phong tục, lại có nhiều thủ đoạn trong nghề bang giao. Lần này, Sài Thung còn lãnh một trọng trách vừa to lớn, vừa mới mẻ, tức là bang giao có vũ trang. Sài Thung nắm trong tay một bộ máy triều đình của nước An Nam, do thiên tử nhà Đại Nguyên áp đặt. Từ quốc vương đến các đại thần, đều lấy ra từ đoàn cống sứ của Đại Việt Chẳng hạn Trần Di Ái dự hàng quốc thúc của An Nam quốc vương Trần Nhân tôn, vốn là viên chánh sứ sang đại đô năm trước được giữ lại. Thiên tử nhà Đại Nguyên đã mông ân cho y làm An Nam quốc vương, và phế truất cha con Nhật Huyên(Tên thật của Trần Thánh tông là Trần Hoảng, bọn vua quan và sứ giả nhà Nguyên đều gọi sách mé là Nhật Huyên.). Ngay cả bộ máy cai trị của thiên triều, cũng đã sắp đặt đâu vào đấy.
Sài Thung khấp khởi, phen này y chỉ dùng ba tấc lưỡi với một đạo binh nhỏ, cũng thừa sức làm cho vua tôi nhà Trần phải run sợ đầu hàng. Vì rằng, nếu năm ngàn quân kia không xong, thì sẽ có năm mươi ngàn, sẽ có năm trăm ngàn. Sẽ có ức, triệu quân đến làm cỏ xứ này. Vì rằng Trung Nguyên mênh mông là thế, vĩ đại là thế, còn bị vó ngựa Mông Cổ đạp nát cả thành trì, vua tôi nhà Tống cõng nhau nhảy xuống biển chết trôi, chết chìm, huống chi lũ sẻ Thăng Long, đọ sao được với đại bàng thảo nguyên. Sài Thung mỉm cười bước vào lều trướng của viên tướng người Mông Cổ, để bàn kế tiến binh vào đất An Nam cùng với sứ đoàn của y.
(Trận đại bại của vua tôi nhà Tống ở Nhai Sơn năm Kỷ mão (1279). Quân Nguyên đánh úp, quân Tống thua. Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết. Qua bảy ngày, xác nổi lên mặt biển đến hơn mười vạn người. Đến đây kết thúc triều đại nhà Tống. Hốt-tất-liệt thống trị Trung Hoa và đổi niên hiệu là Đại Nguyên.)
Ba ngày sau, khi vừa canh một, Sài Thung đã đốc thúc đám Trần Di Ái dẫn đường qua cửa Tư Minh, để vào đất Đại Việt. Đám lính hộ tống người Mông Cổ quân ngậm tăm, ngựa bỏ nhạc đi cách xa chừng nửa dặm. Sau cánh quân người Mông Cổ là quân tân phụ.
Đêm mùa hè mát rượi. Trời đầy sao. Sương tưới đẫm cây cỏ hai bên vệ đường. Rừng cây âm u, đầy bí hiểm. Thỉnh thoảng lại lóe lên một đám lân tinh biếc sáng, như lũ ma trơi rập rình nô giỡn. Rồi tiếng nước suối tuôn róc rách. Tiếng gió lao xao trên đỉnh ngàn cây. Và tiếng côn trùng rỉ rả. Vẳng đâu đây có tiếng cú rúc. Tiếng tắc kè. Tiếng mang tác. Thảng có tiếng chim hốt hoảng đập cánh soàn soạt vút bay lên, xen cả tiếng chạy rậm rịch của đám thú ăn đêm.
Nằm trên cáng, Sài Thung căng mắt ném cái nhìn mơ hồ vào những vòm cây đen sẫm mỉm cười. Viên chánh sứ lấy làm đắc ý. Y nhớ hồi tháng chạp năm Mậu Dần (1278), cách đây gần bốn năm, thiên tử nhà Nguyên cử y làm chánh sứ sang điếu tang An Nam quốc vương (Trần Thái tôn). Y dẫn đoàn đi theo đường tắt Vĩnh Bình để vào đất Đại Việt. Y đã bị quan quân Đại Việt ngăn lại và Nhật Huyên đã gửi cho y một bức điệp văn, lời lẽ khôn ngoan tới mức không thể nào quên được: “Nay nghe quốc công đến biên giới tôi, biên dân không ai là không lo sợ, không biết sứ nước nào mà đến lối đó, xin đem quân về đường cũ mà đi. . . “
Hừm! Sài Thung phát đánh đét một cái vào mặt, y di bàn tay và xòe ra trong đêm tối. Không nhìn thấy, nhưng y biết là đẫm máu. Những con muỗi quái ác như báo cho y biết là đã bắt đầu vào miền đất ẩm ướt phương Nam. Mặc dù vậy, mạch suy tư của quan thượng thư bộ lễ vẫn cứ tiếp nối. Y lại cười khẩy - “Nhật Huyên, vậy là lần này ta cho quân đi đúng đường vào đất nhà ngươi. Sao không có đại quân nghênh rước”?
Sài Thung tự nhủ: “Sớm mai ta sẽ cho quân tiến thẳng vào dinh thự hiệp trấn Lạng châu. Ta sẽ quở trách y vô lễ không ra địa đầu biên ải nghênh rước sứ giả thiên triều”. Và Sài Thung mơ tưởng, chuyến bang giao vũ trang này của y thành tựu, mà nhất định phải thành tựu, sẽ là một kỳ tích không tiền khoáng hậu trong lịch sử, ngay cả đến Trương Nghi, Tô Tần cũng không sánh được. Y sẽ là người đứng ra cai quản xứ An Nam này. Chính y chứ không phải tên Mông Cổ võ biền Bột-nhan Thiết-mộc-nhi trị vì cái vương quốc bé nhỏ mà giàu có này. Y sẽ có kế sách đuổi tên Mông Cổ kia đi nơi khác. Nếu không, thì khí hậu lam chướng và gái đẹp phương Nam cũng giết hắn: Hoặc giả, các món ăn bổ béo, các thứ quý lạ và bạc vàng cũng giết hắn. Nghĩa là có y thì không có hắn. Trường suy tưởng của Sài Thung cứ miên man như một đàn kiến.
Bỗng một phát pháo hiệu nổ vang. Rồi hàng loạt pháo nổ như trời long đất sập. Lập tức từ hai cánh rừng, quân ùa ra như thác lũ bọc lấy bọn Trần Di Ái, Sài Thung.
Đám người ngựa của quân Mông Cổ đều sa xuống hố. Tiếng ngựa hí, tiếng người kêu cứu, tiếng khóc, tiếng chửi chìm đi trong tiếng reo hò của quân Nam.
Tảng sáng, bọn Trần Di Ái chạy tháo thân vào rừng. Đám gia binh của Hưng Vũ vương Nghiễn nhận mặt được, nên chẳng mấy chốc y đã bị bắt giải về kinh, theo đường ngựa trạm.
Từ lúc có tiếng nổ, Sài Thung lo chạy thoát thân, y đinh ninh rằng bọn Trần Di Ái đã chết trong đám loạn quân. Có điều lạ là Sài Thung không tìm cách quay lại đất Trung Quốc, mà lầm lũi đi theo cánh quân Đại Việt áp sát y.
Khi mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, cũng là lúc y quá mệt nhọc. Bởi sau trận phục kích bất ngờ quan bỏ lính, tớ bỏ chủ chẳng còn ai võng, cáng y nữa. Cái bụng y to, cái chân y ngắn, lại chạy tụt mất cả giầy, hai bàn chân mũm mĩm bị đất đá, gai sỏi chà sát rơm rớm máu tươi. Y nhìn trước ngó sau, không thấy có một tên quân Mông Cổ nào chạy theo y.
Sài Thung rất đỗi hoang mang. Y tự nghĩ: Chẳng nhẽ binh lính của thiên triều lại bị cái lũ man di này giết hết cả rồi sao? Chẳng nhẽ hàng ngàn thiên binh thiên tướng bị bọn Nam man này dùng quỷ kế bắt hết rồi sao? Giữa lúc y muôn phần bối rối thì may thay, cái quán dịch - nơi tiếp sứ của quan hiệp trấn vùng địa đầu biên ải đã gần kề. Sài Thung bèn ngồi phệt xuống không chịu đi nữa. Quân lính Đại Việt được lệnh áp sát y chứ không dọa nạt, quát lác, đánh đập. Nhưng cũng không để cho y sai khiến.
Một lát sau, quan hiệp trấn ngựa xe võng lọng, tiền hô hậu hét từ nhà quán dịch tiến về sứ đoàn thiên triều.
Ở cái trấn biên thùy lại có cửa quan thông với nước lớn Đại Nguyên, viên hiệp trấn thường nhẵn mặt các sứ đoàn Nguyên Mông. Vì vậy vừa nhìn thấy Sài Thung, quan hiệp trấn không nhịn được cười, phải quay đi vờ đưa tay áo thụng lên che miệng. Thật không ngờ, quan chánh sứ nhà Đại Nguyên, chân không giầy, áo quần rách mướp, mũ đại thần có hai cánh chuồn thì rơi mất một, còn một chiếc thì quay ngược về phía trước. Mặt mũi quan chánh sứ bị gai cào rớm máu. Nom quan lớn thiên triều y hệt một tên hề. Bấm bụng để khỏi bật thành tiếng cười, quan hiệp trấn làm ra vẻ nghiêm trang xuống kiệu, bước về phía quan chánh sứ nhà Đại Nguyên nghiêng mình thi lễ.
Không hiểu vì tức giận hay vì xấu hổ, Sài Thung liền quay ngoắt mặt đi. Một lát sau, dường như đã trấn tĩnh, y liền quát:
- Vua tôi nhà các người to gan lớn mật, dám phục binh chống lại sứ giả thiên triều.
Quan hiệp trấn Đại Việt ôn tồn đáp:
- Bẩm đại quan, tôi phụng mệnh triều đình, rước đại nhân về nghỉ nơi dịch quán.
Sài Thung hầm hầm tức giận bước lên kiệu. Lũ tùy tùng nghênh ngáo đi theo.
Bỗng một hồi chiêng nổi lên, người ém từ trong rừng ùa ra, cờ quạt, tàn lọng màu sắc rực rỡ, cùng đồ tế khí vàng son lấp lóa hòa với tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên ầm ầm. Không khí rõ ra một ngày hội. Đám quân kiệu, quân rước, áo nậu nẹp vàng, tề chỉnh. Khuôn mặt ai nấy đều hân hoan. Và những dũng sĩ đánh song đao cùng con kỳ lân cứ vờn trước kiệu của Sài Thung, ném ra những lời chúc mừng kính cẩn: “Sài Trang khanh thiên tuế! Thiên tuế?...”
Nom bộ mặt xây xát, bầm tím, mũ áo rách bươm, xộc xệch với dáng điệu vênh váo kệch cỡm của Sài Thung trên kiệu, Với cách tiếp rước theo nghi lễ trang trọng của quan biên trấn, khiến ai nhìn thấy cũng phải bưng miệng cười.
Vào nghỉ trong quán dịch tới xế chiều, vừa đói mệt, vừa uất ức căm giận, xấu hổ, Sài Thung cứ mong ngóng mãi không thấy một đại thần nào của triều đình nhà Trần lên biên trấn tiếp rước, cũng chẳng thấy viên quan bản hạt dâng cơm rượu.
Tới mức không chịu được nữa, Sài Thung đập phá quát tháo. Lính hầu của quan hiệp trấn ló vào, bị Sài Thung vơ lấy khay trà đánh lên đầu tóe máu. Người lính ôm đầu chạy. Lát sau yên ắng, quan biên trấn áo mũ chỉnh tề bước vào, nghiêng mình sá Sài Thung.
Sứ giả thiên triều đập án quát:
- Nhà ngươi láo thật? Định bỏ ta chết đói ở cái xó này phỏng?
Quan biên trấn làm ra vẻ run sợ:
- Bẩm đại quan, bản chức đã sửa soạn cơm rượu đầy đủ ngay từ khi đại quan mới tới. Nhưng không thấy đại quan cho gọi, nên bản chức không dám tự tiện.
- Quân láo thật, dám lỡm cả sứ thiên triều.
- Bẩm quan lớn, đó là tục nước chúng tôi. Kẻ dưới phải kính cẩn với người trên. Nếu bề trên không cho gọi hỏi, kẻ dưới đều không dám tự tiện.
- Được rồi, ta cho phép ngươi dâng cơm.
Một mâm cỗ đầy, với hai tầng bát đĩa, lập tức được bê vào. Nom có vẻ ngon, nhưng nguội ngơ nguội ngắt, ruồi bâu đầy. Loáng thoáng đã có con ngã vào âu canh. Cơm thì rắn và đóng vầng đóng chóc. Rõ là một mâm cơm thịnh soạn, thuần những đồ sơn hào hải vị. Nào gân nai, nấm thả, nào hải sâm, yến sào. Vậy mà quan chánh sứ không nuốt nổi. Bởi càng nghĩ càng uất. Mang danh một trọng thần của thiên quốc mưu cao, chước lạ vừa mới đem ra thi thố đã bị bọn “man di” làm cho sập đổ. Bây giờ không biết số phận của một ngàn tên quân Mông Cổ, bốn ngàn tên quân tân phụ ra sao. Bọn lính tân phụ chẳng kể làm gì, chứ đám quân Mông Cổ kia mà bị nguy hại thì còn gì là uy danh thiên triều. Và chắc chắn là Hốt-tất-liệt sẽ không để cho y sống yên ổn. Lại cả cái đám triều đình do y dẫn từ đại đô về cũng bị giết chết hết, không còn một mạng nào. Bây giờ kiếm đâu được một đứa ra hồn để vẽ mặt, đặt nó lên ngôi quốc vương An Nam.
Hết nghe tên Hán gian hạnh họe lại nhìn nó dằn bát đũa trên mâm cơm, quan hiệp trấn thừa biết y đang nuốt phải mật đắng của quân dân Đại Việt. ông thầm kính trọng đức Hưng Đạo điều binh khiển tướng thế nào, mà mỗi bước quân kia đi là đúng vào diệu kế của quân mình. Thoạt tiên, ông được Hưng Vũ vương cho hay mật chỉ của triều đình, là ông với danh nghĩa quan biên trấn, phải lo tiếp rước sứ nhà Nguyên long trọng. Nhưng phải ráng che tai, bịt mắt Sài Thung và đám tùy tùng của hắn. Tuyệt nhiên không để chúng dòm ngó vào được kho tàng của ta, binh lực của ta. Đường ngang lối tắt của ta, một bước cũng không cho y lui tới. Bởi vậy, quan biên trấn đã nghĩ ra cách mở hội đón y. Che mắt y bằng cờ quạt, tàn lọng, và người chen người suốt dọc đường chúng đi. Bịt tai y bằng tiếng trống, chiêng, hò hát. Nhưng thảm hại cho viên chánh sứ, là hắn đang đau như hoạn, vẫn cứ phải gượng sầu mà lên mặt vênh váo.
Trong khi hắn đang lo són máu, thì Hưng Vũ vương hả hê vì đã làm được đúng như ý cha mong muốn. Nghĩa là tướng quân phục binh quanh dải rừng, đã đào sẵn một cái hào rộng ngay chỗ giáp ranh biên ải. Đêm ấy chờ cho đoàn sứ giả vừa đi qua, chợt lũ người, ngựa quân Mông Cổ ập tới, vương cho nổ pháo đùng đùng. Ngựa nghe tiếng nổ và khói pháo cay sè hoảng hốt nhảy chồm lên. Thế là người, ngựa chúng nó nhất tề lăn xuống hố.
Trời sáng rõ, lũ chúng nó, những đứa nào còn sống sót lồm cồm leo lên bờ. Không thấy Sài Thung, như rắn không đầu, bèn tìm đường chạy tháo trở lui.
Trận bang giao có vũ trang này của Sài Thung, được xem là một kỳ mưu ở đại đô Yên Kinh. Hốt-tất-liệt hết lời cổ súy. Vậy mà mới mấp mé biên thùy thôi, nó đã bị đại bại. Quân thì ôm đầu máu chạy về, tướng thì mặt mày xây xát ngồi đây, với áo quần mũ mão bờm rách, như một tên hành khất, còn mấy con tất bù nhìn Trần Di Ái và đồng bọn, bị trói giật cánh khuỷu giải về triều từ đêm trước rồi. Nay y ngồi đây, đợi triều đình ta cho người đón về Thăng Long. Y ngồi đây, hẳn là y đang toan tính một nước cờ khác, liều lĩnh hơn, hiểm độc hơn. Quan biên trấn mường tượng mối bang giao giữa hai nước, sẽ ngày một phiền toái thêm. Kẻ kia cậy thế nước lớn sẽ còn lấn tới.
Ông rùng mình nghĩ đến cảnh can qua.
Sài Thung lòng dạ bồn chồn, ăn uống không được, đứng ngồi không yên. Y vẫy gọi quan biên trấn lại gần hỏi:
- Bao giờ thì vua tôi nhà ngươi đến đây rước ta?
- Bẩm đại quan, tôi đã cho chạy ngựa lưu tinh về tâu triều đình rồi. Đại quan chờ cho dăm ba bữa nữa, chúa công tôi sẽ có người lên rước thiên sứ về kinh.
Những lời nói ngọt ngào bình thản đến lạnh lùng của quan biên trấn, càng như chọc tức Sài Thung. Đôi mắt y như hai cục lửa, cứ long lên sòng sọc. Không kìm nén được, Sài Thung ném ra một giọng nói miệt thị:
- Dân di địch các ngươi không biết lễ nghĩa. Ta chưa thấy một tiểu quốc nào lại dám nghênh đón sứ thần đại quốc như vua tôi nhà ngươi.
(Bọn thống trị Trung Quốc xưa coi dân các nước ngoài Trung Hoa là Man di, Địch quốc. Bởi trong chữ Man có bộ trùng, trong chữ Địch có bộ khuyển. Có nghĩa là chúng coi các dân tộc khác như dòi bọ, chó má.)
Quan biên trấn giận tên giặc già đến bầm ruột, vẫn vờ như không biết và dẽ dàng đáp:
- Thưa đại nhân, ở nước chúng tôi từ loài trùng vô tri vô giác như con tằm, con ong, đều có nghĩa đối với người cho nó ăn. Nó giả tơ, giả mật cho người có công chăm sóc nó. Ở nước tôi trẻ con cũng biết con tằm “đáo tử ti phương tận”( Đến chết vẫn còn nhả tơ ). Con chó, con ngựa là những vật nuôi trong nhà cũng trung thành với chủ cho đến lúc chết. Thật là khuyển mã chí tình. Nhưng con người, dù ở nước lớn hay nước nhỏ mà bất nghĩa bất nhân, thì đúng không bằng loài sâu bọ chó má thật.
Như giẫm phải tổ ong bò vẽ, Sài Thung hét lớn:
- Quân vô đạo! Ta đã bảo dòng giống vua tôi nhà các ngươi không có lễ nghĩa.
- Đại nhân quá lời đấy. Chắc đại nhân nóng giận mà chưa kịp nghĩ chăng? Được biết đại nhân sẽ qua thăm nước chúng tôi, quốc vương tôi sai tôi phải túc trực để tiếp rước đại nhân. Khi đại nhân vừa tới địa đầu biên ải, chúng tôi đã kịp nghênh tiếp. Biên dân chúng tôi nô nức đi đón đại nhân vui như trảy hội. Đại nhân tới đâu, từ lão phu tới bọn mục đồng đều kính cẩn vái chào. Từ quan đến dân, chúng tôi đều tỏ lòng hiếu khách, không hề có một sự sơ suất nào. Đại Việt chúng tôi là một nước văn hiến lâu đời sánh ngang Hán, Đường, tưởng như văn hiến bên quí quốc cũng đến thế mà thôi. Hà cớ gì đại nhân khinh mạn nước tôi. Đại nhân có thể coi thường tôi, thậm chí khinh miệt tôi, nhưng chớ có động đến quốc thể chúng tôi.
Quan biên trấn giận tới mức không thể kìm giữ được lời nữa. Mặt quan đỏ gay, lời lời phẫn uất, khiến Sài Thung chột dạ ngồi im.
Đúng lúc ấy bỗng vang rộn tiếng nhạc ngựa, tiếng quân rậm rịch ở phía ngoài. Rồi một người dong dỏng cao, mặt mũi tuấn tú, áo thụng tía, đai ngọc, mũ bình thiên, chân mang hia đen thêu đôi phượng đỏ, tiến vào dịch quán. Người ấy nghiêng mình thi lễ:
- Bản chức có lời chào đại quan.
Liếc nhìn sắc diện và y phục Sài Thung, mặc dù đã được đám liêu thuộc quan biên trấn bẩm báo từ trước, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải không khỏi giấu mặt cười thầm. Để cho sứ thần thiên triều đỡ mất thể diện, Chiêu Minh vương bèn dâng bức điệp văn úy lạo của quốc vương Đại Việt, và một chút quà biếu. Nhìn nét mặt Sài Thung đọc bức điệp văn có hơi vui một chút.
Chiêu Minh vương truyền cho khiêng vào trước Sài Thung hai hòm quà biếu. Một hòm đựng đầy y phục đại quan may theo kiểu phương Bắc. Hòm kia thuần các đồ vàng bạc như bộ đồ trà bằng bạc trạm. Một bộ chén ngọc nạm vàng. Một viên ngọc minh châu to bằng quả trứng chim sẻ, đựng trong hộp vàng. Và một cặp ngà voi, cùng một trăm nén vàng.
Chiêu Minh vương sai viên nội nhân bày quà cáp lên kỷ. Đám quà cáp càng chồng chất cao bao nhiêu, thì gương mặt Sài Thung càng tươi tỉnh lên bấy nhiêu. Cuối cùng các vết nhăn trên khuôn mặt vốn đầy sát khí kia, như cùng một lúc giãn ra hết, và một nụ cười đầu tiên của Sài Thung đã nở trên đất Đại Việt. Y quay về phía Trần Quang Khải, hơi nghiêng đầu đáp lễ.
- Ta có lời chào quan tướng quốc thái úy. Và y thầm nghĩ: “Vậy là cha con Nhật Huyên cũng đã biết điều. Đã cử viên quan đầu triều đến tận biên trấn rước ta. Và với món lễ này - Y lại nhìn xuống đống châu báu, vàng bạc - cũng tạm được”.
Tướng quốc thái úy bèn mời Sài Thung sang nghỉ tại dinh quan biên trấn, để ngày mai lên đường về Thăng Long.
Trước sự tiếp đón long trọng của quan tướng quốc, lễ lạt lại ưu hậu, Sài Thung đã có phần nào nguôi ngoai. Chặng đường từ biên trấn về tới Thăng Long nếu đi ngựa mất bảy ngày. Nhưng lấy cớ để bảo trọng quan chánh sứ thiên triều, Trần Quang Khải sức cho quan biên trấn phải cho lính cáng. Suốt chặng đường đi cáng mất hai mươi ngày, cứ ngày đi đêm nghỉ. Sài Thung nằm cáng trước, Trần Quang Khải nằm cáng sau, hai người trò chuyện vui vẻ lắm. Đêm đêm lại cùng ngủ trong các dinh hay trong dịch quán, hai bên đã có phần nào hiểu biết nhau thêm. Tuy đi bộ, nhưng suất dọc đường, sứ thiên triều như bị bưng tai, bịt mắt. Lộ trình chỉ đi theo một đường thẳng, hai bên rừng núi ken dầy. Thảng có đường ngang đường rẽ, ngã ba ngã tư đều đã được trồng kín các loại cây cối và dây leo. Dù là người trong vùng cũng khó nhận ra, huống chi bọn ngoại nhân từ Yên Kinh tới.
Khi về đến dinh an phủ sứ lộ Kinh Bắc, thì ý đồ của Sài Thung rõ dần. Y nhất quyết phải tìm một người nào để thay thế Trần Di Ái. Sài Thung bèn mở một nước cờ thăm dò, y nói:
- Ta vẫn nghe danh quan tướng quốc thái úy, nay được tiếp kiến, ta rất lấy làm cảm mến.
- Đa tạ đại nhân. Biết kẻ kia đang giăng quỷ kế, Trần Quang Khải dè dặt đáp. Và ông cũng tương kế, tựu kế, hỏi luôn: - Đại nhân từ thượng quốc tới nước tôi lần này, chẳng hay thiên tử có điều chi dạy bảo vua tôi nước chúng tôi?
- Ta sao biết được ý thiên tử. Tất cả đều ở trong tờ chiếu được niêm phong rất cẩn thận, ta vẫn giữ đây.
Khí hậu phương nam thật lạ kỳ. Ban ngày thì nóng hầm hập mà đêm xuống, khí rừng núi loãng tan ra buốt lạnh tê tái khiến Sài Thung dù đã mặc áo Hồ cừu, tay ủ trong lồng ấp vẫn thấy rét run. Trần Quang Khải truyền đóng kín các cửa dinh lại, và cho đốt thêm ba lò than. Rượu hâm nóng. Thịt nai nướng mỡ cháy xèo xèo, hơi bay thơm phức. Không khí ấm nóng cùng với mùi thức ăn, mùi rượu làm cho con người quên bớt nỗi mệt nhọc, lo âu. Chỉ có hai người thù tạc, bọn quân hầu, nội nhân thấp thoáng ở phía ngoài chờ sai bảo. Các bọn tùy tùng của quan tướng quốc và quan chánh sứ, ăn uống khu biệt ra một nơi.
Quan tướng quốc người cao dỏng, mắt sáng, lông mày rậm, dài quá đuôi mắt, mũi thẳng, đôi lưỡng quyền rộng, cằm vuông, môi đỏ, da mặt tươi nhuận. Dáng người nhanh nhẹn, cứng cáp, đi đứng uy nghi. Tiếng nói trầm mà vang. Trời đêm tuy lạnh, nhưng quan tướng quân đã quen khí hậu nên chỉ vận lót trong mình một mảnh giáp hộ tâm sau lần áo kép ngắn, bên ngoài phủ thêm chiếc thụng gấm màu tía, ngực thêu hổ phù và chiếc đai thêu hai con phượng vờn viên ngọc quí, thắt hờ.
Sài Thung có dáng điệu riêng của một người ở miền nam Trung Quốc. Ông ta mập mạp hơi lùn vì cái bụng quá to. Nom từa tựa một cái thùng hình vuông. Được cái dáng đi khoan thai nhưng đầu lại cúi, như một người chỉ thích xem ngắm đôi chân mình. Sài Thung có cặp mắt híp. Khi nhướng lên lại hơi trố, và cặp lông mi thưa, tạo thành nửa vòng tròn nom ngồ ngộ như một chiếc lỗ đáo. Mặt ông ta thoạt nom thì tròn, kỳ thực lại gồ ghề, bởi đôi lưỡng quyền thịt nổi lên thành múi. Nhẽ ra với gương mặt ấy, Sài Thung phải có cái mũi hình củ tỏi mới tương hợp. Song tạo hóa lại đặt vào đó một chiếc mỏ chim ưng, khiến tướng ông ta bị phá cách nặng nề. Sài Thung có nước da tai tái, giống như cặp môi dầy của ông ta. Nom gương mặt lúc nào cũng khó đăm đăm. Ông ta có giọng nói hơi lạ, các âm tiết như phọt ra từng cục từ cổ họng cùng nước miếng phun ra như mưa phùn. Ông ta ăn uống nhồm nhoàm, vừa nhai vừa nói. Khí nóng từ lò than, cùng rượu và thức ăn, đã làm quan chánh sứ nóng bừng. Ông hé mở hàng khuy ngoài chiếc áo cừu. Một lát lại phanh cả vạt mấy chiếc áo bên trong, khiến bộ ngực ông ta lộ ra như một súc thịt trâu còn nguyên bì, vì nạm lông đen rậm phủ kín cả một vùng ức.
Sài Thung mượn chén để tiếp nối cuộc thăm dò. Y nói:
- Quan tướng quốc ạ, thiên tử rất mến tài ông, mong có dịp được trọng dụng.
Trần Quang Khải tuy lượng ăn uống không kém Sài Thung, nhưng ông vẫn ung dung bình thản. Biết bụng kẻ kia càn dỡ, ông lấy lòng ngay chính khiêm nhường đáp:
- Tôi chắc đại quan hơi quá chén, nên có sự nhầm lẫn chăng? Tôi là kẻ bất tài được vương huynh tôi đem lòng yêu, nên cho tập sự chức quan nhỏ, ngày đêm lo sợ. Vả lại, Đại Việt tôi là một tiểu quốc ở mãi nơi cuối biển cùng trời, thiên tử lo việc lớn bên đại quốc, người còn tai mắt nào để ý tới lũ chúng tôi.
Sài Thung vờ làm ra giận dữ, ông ta ngừng nhai, nhìn thẳng vào hai mắt Trần Quang Khải thăm dò. Bốn mắt giao nhau, Trần Quang Khải xem Sài Thung lúc này không hơn một con vật được nuôi nhốt, và được chăm sóc chu đáo. Quan tướng quốc bụng bảo dạ: “Tướng mạo tham bẩn, gian hùng, phản trắc. Người này dám làm tất cả mọi việc, trừ việc nhân nghĩa”.
Nhìn gương mặt kiên nghị với tư cách đường hoàng của tướng quân Trần Quang Khải, Sài Thung thầm nhủ: “Kẻ này khó chinh phục đây”.
Vẫn bộ mặt nghiêm lạnh, giọng nói cục cằn, thô lỗ, cậy thế nước lớn, y nói:
- Thiên tử thế thiên hành đạo. Việc gì xảy ra dưới cái vòm trời này mà thiên tử chẳng quan tâm. Tay chân của thiên tử ở khắp mọi nơi, kẻ nào hay dở, xấu tốt gì mà thiên tử không biết. Thật tình, mấy lần qua lại Thăng Long, ta có để mắt tới ông. Tất cả những gì mà ta lưu tâm, ta đều tâu thiên tử. Vì vậy, trước khi ta đi, thiên tử có gửi lời úy lạo ông.
- Đa tạ đại nhân, Trần Quang Khải nói và ông ngập ngừng thăm dò Sài Thung: - Bẩm đại nhân, Quang Khải tôi vốn hiếu kỳ, dám xin đại nhân bỏ qua. Chẳng hay từ khi thiên tử đại định xong Trung Nguyên, ơn mưa móc đã nhuần thấm đến mọi nhà chưa?
- Ông hỏi ta điều ấy mà không sợ mang tội bất kính sao? Các ông ở xa thuộc dòng Di, Địch thiên tử còn mông ân, huống chi dân Trung Nguyên.
- Vậy chớ lần này đại nhân đem ơn riêng gì của thiên tử cho Đại Việt chúng tôi?
- Thiên tử hạ cố cho An Nam điều gì đã có ghi trong chiếu thư gửi cho Nhật Huyên. Riêng ông, ta có chút hậu tình, muốn tiến cử để thiên tử phong cho ông làm An Nam quốc vương. Nói xong, Sài Thung tự tay rót đầy hai chén rượu, và tiếp - Chúc ông đời đời vinh hiển.
Trần Quang Khải giận tái mặt, ông đã toan thoi cho tên Hán gian này một quả thôi sơn cho hả dạ. Chợt nghĩ đến thế nước, ông phải nén lòng, nói dằn từng tiếng một để lấy lại sự bình tâm:
- Chắc đại nhân hiểu tôi thuộc dòng dõi nào? Giàu sang phú quý mà làm gì? Ngôi cao lộc trọng mà làm gì? Tiên quân tôi xưa chỉ biết lấy xã tắc làm trọng. Còn ngôi báu, Người không coi hơn chiếc áo tơi của bọn nông phu.
Sài Thung cười khẩy.
Hôm sau, Trần Quang Khải dẫn Sài Thung đến bến đò sông Thiên Đức( Sông Đuống ngày nay), y nhất định không chịu đi cáng nữa mà đòi đi ngựa. Quang Khải biết y đã trở mặt.
Ông cho lính chạy ngựa đưa tin trước về triều.

CHƯƠNG 3 :


Khi Sài Thung chưa vào tới Thăng Long thì triều đình Đại Việt đã nghị án xong xuôi bọn Trần Di Ái. Công việc được giữ kín như bưng, trong ngoài không ai hay. Vì vậy Sài Thung vẫn đinh ninh rằng, lũ Di Ái đã chết trong đám loạn quân.
Trần Di Ái đáng tội chết. Đi sứ để nhục mệnh vua. Nhưng thương tình là người quốc thích, được tha tội chết. Song, để giữ nghiêm phép nước, Di Ái vẫn bị đồ làm binh khao giáp ở Thiên Trường. Bọn tùy tùng như Lê Mục, Lê Tuân cũng bị đồ làm Tống binh. Tức là cho gia nhập với những người nhà Tống lưu vong sang ta, được phiên thành đội ngũ, dưới sự sai khiến của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Mà Trần Nhật Duật đang trấn thủ mạn Đà Giang. Vậy là lũ Trần Di Ái cũng coi như bị lưu đầy viễn châu.
Lại nói về Trần Hưng Đạo, sau khi cắt đặt công việc cho các con và bọn gia tướng cùng môn khách, ông lên đường về kinh vừa kịp tham gia việc nghị án Trần Di Ái.
Một hôm từ Quốc phủ ông sang cung Thánh từ vấn an thượng hoàng Trần Thánh tôn. Nhân có quan gia đến chầu, ông xin bệ kiến để tâu việc cơ mật.
Lúc này điều hành công việc triều chính, thực đã ở tay Nhân tôn. Song Thánh tôn vẫn luôn xem xét giám sát. Vì vậy, ông xin được tâu trình để cả hai vua cùng biết.
Hưng Đạo là con Yên Sinh vương Trần Liễu, về thứ bậc, ông là anh em con thúc bá với thượng hoàng Trần Thánh tôn. Thánh tôn phải gọi ông bằng anh. Còn Nhân tôn lại là con rể ông. Tính tôn tộc là như vậy, nhưng ông giữ lễ vua tôi rất nghiêm cẩn.
Ông vừa quỳ lạy thượng hoàng xong, Nhân tôn đến, ông lại quỳ. Nhưng cả hai cha con Nhân tôn đều nâng ông dậy, và xin được miễn lễ. Nhân tôn nói:
- Trình bá phụ, (Nhân tôn thích xưng hô như vậy hơn là quốc trượng), lễ vua tôi là ở nơi thiết triều. Còn bây giờ ở nhà thì phải theo lễ cha con, bác cháu.
Hưng Đạo vuốt râu cười, thong thả đáp:
- Quan gia thể tình mà rộng lượng, ấy là quyền ở quan gia; còn đạo làm tôi, Quốc Tuấn này dâu dám trái. Ấy tính Quốc Tuấn là như vậy, ông không ưa sự sàm sỡ. Vì sàm sỡ làm cho con người dễ xuề xòa mà lỗi đạo.
Tận đáy lòng mình, Quốc Tuấn cũng rất muốn được biểu lộ tình anh em, tình cha con cốt nhục. Hiềm có sự nghi kỵ ông đem lòng kia khác, vì mối thù cha ông và Trần Thái tôn nên ông càng phải giữ gìn. Lại nhớ hồi năm Bính thìn (1256) Vũ Thành vương Doãn đem cả nhà trốn sang Tống, ông suýt bị liên lụy. Có người hỏi ông: “Sao đại vương không lo giữ mình?”. Quốc Tuấn bèn đáp: “Tôi lo giữ đạo để giữ mình?”. Đó là ý muốn bày tỏ lòng trung thuận với dòng thứ.
(Đây muốn nhắc lại sự kiện Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung ép Trần Thái tôn cướp Thuận Thiên là vợ Yên Sinh vương Trần Liễu. Và việc Trần Thủ Độ phù Trần Cảnh (là em Trần Liễu) lên ngôi vua. Bính thìn (1256) Vũ Thành vương Doãn là con Yên Sinh vương Trần Liễu với Thuận Thiên. Yên Sinh có hiềm khích với Thái tôn, nên khi Thuận Thiên mất, thấy mình thất thế, Vương Doãn liền bỏ nước ra đi và bị bắt trở lại.)
Phân định lễ vua tôi xong, Quốc Tuấn liền nói:
- Tâu thượng hoàng cùng quan gia, lần này Quốc Tuấn tôi về triều kiến, là để tường trình việc thu góp binh, lương của ta, và việc rèn luyện quân sĩ chờ lệnh sai khiến.
Thượng hoàng Thánh tông từ sau cuộc chống Mông-Thát xâm lấn bờ cõi năm Đinh tỵ (1257), đã hiểu được lòng cô trung của Hưng Đạo. Nhà vua vì thế càng quý trọng người anh họ và cũng là người anh vợ mình.
Thánh tông hiểu những việc tận tâm báo quốc của Vương, chính là sự hóa giải mối hiềm khích giữa hai dòng trưởng và thứ. Chính nhà vua tự mình đi lại thăm hỏi Quốc Tuấn, khi thì ghé nơi Quốc phủ, khi đến tận thái ấp Yên Sinh. Tình anh em từ đấy đã có phần bớt căng thẳng. Song Quốc Tuấn vẫn một lòng thủ lễ vua tôi.
Lần này Quốc Tuấn lai kinh, thượng hoàng mừng lắm. Bởi thế nước bị uy hiếp nặng nề. Mà Quốc Tuấn lại là một tướng tài kiệt hiệt, trong tay nắm giữ tới nửa số binh lực cả nước. Môn khách đầy nhà, thuần những bậc hào kiệt, văn võ kiêm thông.
Sau khi nghe Quốc Tuấn tâu bày, hai vua đều lấy làm dẹp ý vỗ về mãi không thôi. Đại ý Nhân tôn nói:
- Thế nước hưng lên được, phải nhờ vào bậc tể thần lương đống như quốc phụ.
- Đa tạ. Ấy là nhờ hồng phúc của tổ phụ, và ân đức của bệ hạ - Quốc Tuấn khiêm nhường đáp. Và ông hỏi thêm: - Tâu bệ hạ, chẳng hay có tin tức gì từ Đại đô đưa về không ?
- Trình Quốc phụ, Nhân tôn đáp - người của ta từ Kinh Hồ hành sảnh, từ Yên Kinh về đều nói: “Hốt-tất-liệt đang chuẩn bị đánh ta gấp lắm. Chỉ mùa thu này là phát binh”. Nói xong, nhà vua rút trong tay áo thụng ra một phong thư, hai tay kính cẩn đưa cho Trần Hưng Đạo. - Quốc phụ xem, trong này nói tường tận lắm.
( Năm 1274 nhà Nguyên tập Kinh Hồ đẳng xứ hành trung thư tỉnh. Năm 1277 gộp Ngạc Châu (Hồ Bắc) vào Đàm Châu (thành tỉnh Hồ Nam). Sau khi diệt xong nhà Nam Tống lại sát nhập cả Lưỡng Quảng gọi là trung thư tỉnh Hồ Quảng (gồm Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây). Tuy vậy vẫn cứ gọi là Kinh Hồ.)
Trần Hưng Đạo đỡ lấy bức tấu thư mở ra đọc. Ông kinh ngạc về những tin tức ông thu được qua con đường riêng, cũng trùng khớp với lời lẽ trong mật thư. Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa, Hưng Đạo ôn tồn nói với hai vua:
- Tâu thượng hoàng cùng quan gia. Ta phải lo tính cấp kỳ, kẻo hối không kịp. Lực của ta, tuy vậy vẫn còn mỏng lắm. Thần nghe tin tức bên Đại đô nói: “Hốt-tất-liệt sẽ phát năm chục vạn binh, đích thân thái tử Thoát-hoan thống lĩnh để đi đánh Đại Việt”.
Thánh tôn trầm mặc, Nhân tôn liền nói:
- Bẩm quốc phụ, vậy theo ý quốc phụ, ta còn cần bao nhiêu binh nữa thì mới tạm đủ dùng?
Quốc Tuấn ve vuốt chòm râu bạc, ông chậm chạp, dường như ông còn cân nhắc từng ý ở trong đầu:
- Xin quan gia cho huy động gấp đôi số hiện có. Tức là phải thêm hai chục vạn binh nữa. Điều này thần đã suy đến cạn nhẽ. Việc binh tốn kém lắm. Thêm binh, tức là thêm lương thảo, khí giới, lại mất đi người cày, cuốc nơi ruộng đồng. Ngay người nông phu, khi bứt khỏi gia đình thôn ấp, bỏ lại nào vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu, héo hon cả ruột gan chứ họ vui thú gì.
- Vẫn biết rằng thế - Thánh tôn nói.- Lòng vương huynh thương dân như con. Nhưng nếu không bắt dân làm việc binh thì anh em ta biết tính sao?
- Cái chính là ở chỗ “biết tính sao” như thượng hoàng nói đó. Theo ý thần, triều đình phải có chính sách vỗ về trăm họ, khiến cho các vương hầu, các chủ điền trang, thái ấp tự mình tăng thêm số gia binh. Còn đám nông nô, nông phu cũng phải được ân huệ gì đối với cha mẹ, vợ con họ. Điều quan yếu hơn nữa là binh sĩ phải ra công luyện rèn tinh thông võ nghệ. Lại phải có lòng kiêu dũng nữa, thì lâm trận mới thủ thắng được. Cho nên việc dụng binh, cần tinh chứ không cần nhiều.
Với vẻ băn khoăn, Nhân tôn nói:
- Quả như lời Quốc phụ, việc binh tốn kém lắm. Con chỉ ngại nhọc sức dân. Xin thượng hoàng cho ý chỉ, rồi con sẽ quyết.
Nhân tôn vừa nói tới đó thì có người ào vào. Với gương mặt tươi cười, đôi mắt sáng như sao. Người ấy quỳ trước thềm điện, giọng nói oang oang:
- Kính lạy thượng hoàng! Kính lạy quan gia! Kính chào Vương gia. Thần xin được diện kiến.
Nghe tiếng nói, mọi người đã biết là ai rồi. Nhân tôn vội chạy ra thềm, nâng người đó dậy và nói:
- Sư phụ, đây là gia đường. Sao sư phụ quá thủ lễ với cha con cháu làm vậy.
Thánh tôn lật đật tới nắm tay Trần Quốc Trung nói:
- Sư huynh về triều lâu chưa?
Hưng Đạo vương cũng đứng dậy vái:
- Vương huynh vẫn bình an chứ?
- Đa tạ, Trung này có bao giờ đau yếu gì đâu. Trần Quốc Trung vừa nói vừa cười tíu tít.
( Trần Quốc Trung, tức Trần Tung, tức Tuệ Trung thượng sĩ Hưng Ninh vương. Ông là con Trần Liễu, là anh ruột Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thành Thiên Cẩm hoàng thái hậu - vợ thượng hoàng Trần Thánh tôn và là bác Trần Nhân tôn. Vì ông am hiểu sâu sắc đạo Thiền, nên cha con Thánh tôn tôn ông là sư huynh và sư phụ. Còn thượng sĩ là pháp hiệu của Trần Tung. Theo Du già luận chú rằng: Không lợi mình, lợi người là Hạ sĩ. Có lợi mình mà không lợi người là Trung sĩ. Được cả hai thứ là Thượng sĩ.)
Hưng Đạo lại hỏi:
- Chẳng hay vương huynh ở Hồng Lộ hay ở Tịnh ấp về triều?
( Lộ Hồng, phần đất thuộc Hải Dương sau này. Nơi đây Quốc Trung được cử làm tướng trấn giữ. Tịnh ấp: tức ấp Tịnh Bang, nơi Tuệ Trung Thượng sĩ lui về vui cảnh điền viên và tu Thiền.)
Tuệ Trung cười phá lên:
- Giời ơi ! Hốt-tất-liệt đánh đến đít rồi mà vương gia còn hỏi ta ở ấp Tịnh Bang mà tu Phật chăng? Ta ở Hồng Lộ về. Nhưng Trung này xin với hai vua và vương gia, “cứu khổ cứu nạn” xong, lại về Tịnh Bang ấp vui với đạo Thiền.
Cả bọn anh em bác cháu đều cười xòa.
Nhân tôn dâng Tuệ Trung một chén trà. Nhà vua hỏi:
- Thưa sư phụ, khi Thiền khi tục thế này bao giờ sư phụ mới thành Phật?
Tuệ Trung đỡ lấy chén nước, đáp:
- Sao lại không. Xuất nhập thế đều tại tâm cả. Ta dứt việc kinh sách để đi cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh - đồng bào của ta. Ta tham gia diệt trừ cái ác, tức thị tâm ta là tâm Phật rồi, lo gì thành hay không thành Phật? Vả lại ta tu để đạt tới cõi thiện, chứ ta có cầu làm Phật đâu.
Chuyện đang vui thì Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu ra vấn an hai anh. Bà hết nhìn Quốc Trung lại nhìn Quốc Tuấn. Thấy Quốc Tuấn ít tuổi hơn, nhưng râu tóc lại bạc hơn Quốc Trung, bà biết là ông đang quan hoài đến thế nước. Bà thương anh đến xót xa. Một lát, đám quan nội hầu dâng ngự thiện.
Vừa vào tiệc, Thánh tôn liền nói:
- Bữa tiệc nay vui quá. Chẳng mấy khi được tiếp hai vương huynh. Nhân có Thiên Cảm hoàng thái hậu đây, xin mời hai huynh và quan gia bỏ lễ vua tôi mà theo tình anh em thuần phác, cho vui vẻ thân mật.
- Vương thượng nói chí phải. Hoàng thái hậu đế theo.
- Vậy thì ta cứ cắt một người làm tửu lệnh. Bữa nay xin cứ vui cho thỏa thuê. Thánh tôn cởi mở hết lòng.
Quốc Tuấn nghiêm mặt nói:
- Tạm bỏ lễ vua tôi trong bữa tiệc vui vầy tình anh em tôn tộc, thần cho đó là một đặc ân của hoàng thượng. Nếu lại còn cử tửu lệnh nữa, thời thần không dám vâng theo.
( Tửu lệnh: Trong tiệc rượu vui chơi, thường cử một người cầm hiệu ra lệnh. Mọi người theo lệnh của người đó mà uống. Ai trái, phải phạt uống thêm rượu. Trong những cuộc vui chơi như thế này thường sa đà quá trớn, nên Quốc Tuấn không chấp nhận.)
Ai cũng biết Quốc Tuấn là người nghiêm chính, ông đã nói là làm, nên không ai bàn đến việc cử tửu lệnh nữa.
Bữa tiệc thật là vui. Bởi Thiên Cảm biết tính chồng, con và hai anh thích ăn những món gì, nên bà đích thân coi sóc việc nấu nướng, bà lại ngồi xế ra một góc nhìn mọi người ăn, và sai đám quan nội hầu, bưng bê những món nào mà các vương ưa dùng. Thấy chồng con và hai anh ăn uống ngon lành, trò chuyện vui vẻ, lòng bà như mở hội. Chợt nghĩ Tuệ Trung ăn các thức ăn thịt cá chẳng kém gì Quốc Tuấn và Thánh tôn, Nhân tôn, bà liền hỏi :
- Anh Quốc Trung tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?
Tuệ Trung cười đáp:
- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô có nghe các bậc cổ xưa nói: “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?”. Vả lại, nếu bằng sự ăn chay mà thành Phật, hóa ra loài thú ăn cỏ sớm thành Phật hơn loài người chăng?
( Văn Thù: là một trong 8 vị đại Bồ Tát, đệ tử của Phật Thích Ca: 1/ Văn Thù Sư lỵ. 2/ Quan Thế âm. 3/ Đắc Đại thế. 4/ Vô Tận y. 5/ Bảo Đàn hoa. 6/ Dược Vương. 7/ Dược Thượng. 8/ Di Lặc.
Giải thoát: Chữ nhà Phật có nghĩa là dứt bỏ được sự trói buộc của mọi sai lầm, phiền não, nhờ vậy sẽ được tự tại mà đạt tới cõi Niết Bàn.)
Thiên Cảm không nói thêm gì nữa. Nhưng Nhân tôn rất trọng thị lời đáp của Quốc Trung. Nhà vua cho rằng Thượng sĩ vừa phá một công án, quả thực đó mới là người tu đạo chân chính. Bởi việc tu đạo là cốt ở tu tâm, chứ đâu phải vì chỗ kiêng khem ấy mà thành đạo. Có nhẽ từ việc làm, nay lại nghe thêm lời nói của Quốc Trung mà Nhân tôn ngộ đạo chăng? Chắc vậy. Bởi trong suốt cuộc đời mình, nhà vua vẫn thường tôn Tuệ Trung là bậc sư phụ. Kíp đến khi lập Thiền phái Trúc Lâm, thời Nhân tôn cũng lấy việc tu tâm làm tôn chỉ.)
Bữa ăn đang vui vẻ, đang từ chuyện đạo, Quốc Trung lại hỏi sang chuyện đời:
- Tôi nghe đại vương- Quốc Trung vừa nói vừa liếc nhìn Quốc Tuấn - đã bắt được lũ Trần Di Ái, và Quan gia đã lưu đầy y đi viễn châu?
- Dạ, đó là nhờ uy đức của quốc phụ. Nhân tôn khiêm ái đáp lời.
- Thế còn bọn Sài Thung thì sao? Chúng có bắt bẻ gì việc đại vương ta đánh tan đoàn quân hộ vệ lũ Di Ái?
- Bẩm bá phụ, chắc chắn là sẽ rầy rà với hắn đây. Hiện thời y còn bị chú Chiêu Minh kiềm chế trên đường đi bộ từ biên ải về. Nhưng mới sớm nay, chú Chiêu Minh cho chạy ngựa trạm về báo: “Sài Thung nhất quyết đòi đi ngựa từ bến đò sông Thiên Đức về kinh”.
- Sao quan gia không nói cho ta hay từ sớm? Thượng hoàng nói.
- Trình phụ vương, tiếp sứ là việc nhỏ, con không muốn kinh động đến phụ vương, cùng quốc phụ và bá phụ. Dạ, tâu phụ vương, y đòi phải tiếp rước y với nghi lễ quốc vương. Và đích thân con phải ra bến Bồ Đề nghênh đón.
- Quân càn dỡ! - Hưng Đạo buông mấy tiếng, vừa hàm chứa sự khinh ghét lẫn bực tức - Vậy chớ quan gia đã làm gì để đáp lời y?
- Dạ con cho đón y đúng với nghi lễ bang giao của một nước có chủ quyền. Việc con cử chú Chiêu Minh đi đón y, là đã có sự nhún một bước. Vì rằng, chú Chiêu Minh là trong hàng tam công, còn y mới chỉ là tước hầu.
( Tam công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo, đó là ba chức quan đầu triều.)
- Con xử thế là phải, Thánh tôn nói. Nhưng ta chắc Sài Thung không để chúng ta yên. Vì rằng, việc vương huynh bắt bọn Di Ái, lại đánh tan đạo quân của nó, tức thị là phá tan mưu chước của nó. Làm cho nó bẽ mặt với Hốt-tất-liệt. Lại bởi y là người Hán mà tước trật cao, thế nào cũng bị bọn người Mông Cổ khích bác kiềm chế.
Bỗng Tuệ Trung cười phá lên. Thánh tông nói:
- Sư huynh cười gì vậy?
- Quốc Trung này buồn cười vì cái bọn Hán gian, đứa nào cũng giống nhau. Từ cái thằng Tần Cối đến Trương Đình Trân, nay lại Sài Thung. Nó hạch sách ta để nịnh chủ nó hơn cả lũ chó săn. Liệu xem quan gia có nên tiếp rước nó, như tiên đế tiếp rước Trương Đình Trân năm Nhâm thân( 1272)?
( Tần Cối: Đại thần nhà Tống. Khi quân Kim xâm lược, y thuộc phái chủ hòa. Nên lập mưu giả mạo chiếu vua bắt Nhạc Phi đang kịch chiến với quân Kim sắp đến hồi chiến thắng phải bỏ mặt trận quay về rồi kết án xử tử.)
Mọi người cười ồ lên.
Số là năm ấy Trương Đình Trân đem chiếu của Hốt-tất-liệt đến Thăng Long. Thái tôn đã đứng nhận chiếu của vua Nguyên, chứ không chịu quỳ lạy. Tên Hán gian này buông lời hỗn xược:
- Nếu tâu việc này lên thiên tử. Mười vạn quân Vân Nam lập tức kéo sang, sẽ biến vương miếu thành gò hoang, vương đình thành cỏ mọc. Rồi y đòi Thái tôn phải tiếp y theo lễ của tước vương. Thái tôn cứng cỏi vặn lại:
- Chúng tôi tuy là nước bề tôi, nhưng thiên tử vẫn tôn trọng. Lạ thay, sứ giả của thiên tử phái đến đây lại thường là bọn vô lễ. Ông là quan Triều liệt, còn tôi là quốc vương, mà ông đòi lễ ngang tôi. Chẳng hay ông học sách nào? Phải chăng văn hiến lễ luật bên quí quốc là như vậy?
( Chức quan của Trương Đình Trân là Triều liệt đại phu).
Trương Đình Trân giận run người. Y đặt tay lên đốc kiếm. Trần Thái tôn đập án quát:
- Quân bay?
Lập tức đám võ sĩ trong đội quân hổ bôn đã phục sẵn sau bình phong liền ào ra, kiếm tuốt trần đứng vây chặt lấy Trương Đình Trân. Y bị lột khí giới rồi dẫn về nhà công quán giam lỏng. Y bị bỏ đói, bỏ khát. Mỗi khi Trương Đình Trân đòi uống nước, quân chỉ đem cho nước bẩn đục ngầu. Thấy vậy y không uống. Đòi uống nước giếng.
Đám quân hổ bôn canh phòng hắn trả lời:
- Tục nước chúng tôi, nếu đã không ưa nhau, thường bỏ thuốc độc vào giếng để giết người.
Khát quá không chịu được, Trương Đình Trân đành phải hạ mình khẩn khoản:
- Ta khát lắm rồi. Cứ cho ta uống nước giếng, chết cũng cam, chứ uống nước bẩn ta không chịu nổi.
Đám lính cười khúc khích, thủng thẳng đáp:
- Tại lời nói của ông xú uế quá, làm nhiễm bẩn nước chúng tôi đấy. Bây giờ tìm đâu ra nước sạch cho ông uống.
Cuộc trò chuyện đang vui, bỗng có tiếng vó ngựa dẫm lộp cộp phía ngoài, rồi Chiêu Minh vương Trần Quang Khải bước vào sụp lạy.
Nhân tôn vội chạy ra đỡ lấy Chiêu Minh vương mà rằng:
- Sao thúc phụ phải giữ lễ với cháu. Chẳng hay thúc phụ có được mạnh giỏi không?
Mọi người xúm quanh Quang Khải. Anh em chú cháu chưa kịp đôi hồi, Quang Khải ngửa mặt lên trời cười sằng sặc:
- Sài Thung giở chứng rồi!
- Y giở trò gì, em nói ta nghe. Thượng hoàng Thánh tông nắm lấy tay Quang Khải hỏi.
- Tâu vương huynh. Từ biên ải về đến bến đò Thiên Đức, em vẫn dẫn Sài Thung đi cáng. Bỗng hắn trở mặt đòi đi ngựa. Em cho kỵ sĩ mang biểu về triều như vương huynh đã rõ. Khi tới Thăng Long, em dẫn y vào nhà công quán, nhất định y không chịu vào, mà tế ngựa thẳng vào cửa Dương Minh, đòi vào đại điện gặp quan gia ngay. Quân thánh dực ngăn lại. Y lấy roi ngựa quất tóe máu đầu mấy tên lính. Nếu không có em ở đấy, thì đám quân thánh dực đã bắt trói y lại rồi. Em bèn dàn xếp để y đi kiệu qua cửa tò vò. Y nhất định không chịu. Y bảo: “Bây giờ có mở toang cửa, rước ta đi ngựa vào ta cũng không thèm nữa, mà phải bắc cầu vồng qua cửa Dương Minh lấy lối cho ta vào đại điện”. Y còn hỗn xược đòi quan gia phải tiếp y với lễ của tước vương.
Trần Quang Khải nén giấu một hơi thở dài. Rồi tiếp:
- Nếu không nhún nhường vì thế nước, chắc là Quang Khải này dã cắt đầu Sài Thung về dâng các vương huynh và vương điệt rồi.
Thấy sự việc căng thẳng, Quốc Tuấn liền hỏi:
- Vậy thời Sài Thung hiện đang ở đâu, xin Chiêu Minh tướng quân cho biết.
- Ô trời? - Quang Khải kêu lên rồi lắc đầu - Thấy sứ trời càn dỡ quá, không chịu nổi, tiểu tướng liền bỏ đấy, nhưng đã ngầm sai đám gia tướng áp sát y về nhà công quán. Để đến chiều tối, y thật đói, xem y có dịu bớt hung hăng, rồi Quang Khải lại xin thù tiếp sứ trời.
Quốc Tuấn trầm mặc:
- Quan hệ hai nước lúc này mỏng manh như một sợi dây Tơ. Xin thượng hoàng cùng quan gia và thái sư liệu bề khu xử cho tế vi. Phải nén lòng. Dù có phải dùng tới mạt kế như Hàn Tín, Câu Tiễn để tránh cho quốc gia khỏi rơi vào nạn binh hỏa vẫn còn hơn. Can qua lúc này là thất lợi cho ta nhiều lắm.
( Hàn Tín, đại tướng nhà Hán. Trong cuộc Hán – Sở tranh hùng, ông đã đánh tan Hạng Vũ thâu tóm toàn thiên hạ cho Lưu Bang. Khi chưa thành đạt, ở kẻ chợ có tên hàng thịt coi thường kẻ sĩ gây sự, bắt Hàn Tín phải chui qua háng. Hàn Tín nhẫn nhục luồn háng y cho qua chuyện. Nhưng khi hiển đạt, ông không tìm cách trả thù tên hàng thịt, mà tìm bà Phiếu Mẫu khi ông cơ nhỡ đã cho lưng bát cơm nguội. Thấy nói ông đã biếu bà cả ngàn nén vàng. Nên mới có câu: “Bát cơm Phiếu mẫu trả ơn ngàn vàng”.
Câu Tiễn làm vua nước Việt bị Phù Sai là vua Ngô đánh chiếm cả thành trì và bắt Câu Tiễn về Ngô hầu hạ. Câu Tiễn tỏ ra qui phục trung thành tới nước Phù Sai ốm, Câu Tiễn nếm phân Phù Sai, để đoán bệnh. Quả nhiên, Phù Sai tin mà tha Câu Tiễn. Sau Câu Tiễn đánh phục thù làm cỏ kinh thành nước Ngô và giết Phù Sai.)
Thấy một đại trượng phu, một hổ tướng kiêm thông văn võ như Quốc Tuấn, mà phải khuyên mọi người nhường nhún như vậy, đủ biết Quốc Tuấn phải nén lòng đến mức nào. Và cũng cho thấy, bên ta chưa đủ lực, chưa sẵn sàng nghênh chiến được.
- Dù sao vẫn phải giữ gìn quốc thể, cháu là quốc chủ, không thể đến công quán vỗ về Sài Thung được. Lại phải phiền chú Chiêu Minh đi cho chuyến nữa. Nhân tôn nói với tất cả sự dằn lòng. Thật quá sức chịu đựng đối với một đấng quân vương mới ngoài hai chục tuổi.

CHƯƠNG 4
:

Trong lúc mọi người đang rối bời, triều đình được tin cấp báo, lãnh chúa người Man ở Đà Giang là Trịnh Giác Mật khởi binh làm loạn.
Nhân tôn đem việc này bàn riêng với Quốc Tuấn:
- Họ Trịnh nối đời hưởng lộc triều đình. Nay nó trở mặt làm phản. Nếu không trị tội để làm gương cho các động, sách khác, e chúng khinh nhờn phép nước, xin quốc phụ cho hay việc này nên khu xử như thế nào?
Trầm ngâm suy nghĩ giây lâu, Hưng Đạo nói:
- Người Man họ sống chưa có lễ luật, nhưng lại có lòng trung tín đối với ai là chủ của họ. Việc Trịnh Giác Mật làm phản, chắc có nguyên ủy sâu xa. Một là việc chăm sóc vỗ về của triều đình thưa vắng. Hai là sĩ tốt vô tình phạm phải các điều cấm kỵ trong tôn giáo của họ. Ba là có kẻ xúi bẩy khích bác, nhằm chia rẽ họ với triều đình, để cho phên dậu của ta trống trải, kẻ thù dễ bề nhòm ngó. Kẻ xúi bẩy, chia rẽ đây không ai khác ngoài bọn tay chân nhà Nguyên. Vậy nên phải xem xét cẩn trọng trước khi coi họ như cừu thù. Làm thế nào kéo họ về với triều đình được là thượng sách. Hơn bao giờ hết, lúc này phải cố kết được lòng dân. Xin bệ hạ dù có phải xuất của kho cho dân họ, hoặc gia phong cho tù trưởng của họ thêm một vài phẩm trật, chớ có sẻn kiệm.
Nghe Hưng Đạo vương nói, gương mặt nhà vua cứ tươi nhuần ra. Phút chốc bừng sáng lên. Đôi mắt nhà vua long lanh, như đang phát ra một thứ ánh sáng trong trẻo, ấm áp. Hưng Đạo vừa ngừng lời, nhà vua đã vui vẻ tiếp luôn:
- Được quốc phụ chỉ dẫn, lòng con bỗng thấy bình ổn. Đúng là không có quốc phụ, con sẽ bỏ đường sáng nghĩ đến việc tìm tướng giỏi, phái binh mạnh đến đánh dẹp họ, để ra oai triều đình. Nhưng nay, đúng như lời quốc phụ dạy: “Phải vỗ về họ, chiêu nạp họ”. Đúng thế, họ phải mãi mãi là phên dậu vững chắc để giữ gìn biên cương Tổ quốc. Cho nên, con định cử chú Chiêu Văn lo giúp việc này. Chẳng hay cao ý của quốc phụ...
- Bệ hạ trao việc ấy cho Chiêu Văn vương là phải. Thượng tướng tuy còn trẻ, nhưng kiến văn uyên bác, lại có lòng nhân, dũng, ít ai bì kịp. Hơn nữa, Chiêu Văn vương vốn thông thạo phong tục người miền ngược, và thường có giao du với họ. Bệ hạ nên trao cho thượng tướng việc phủ dụ là chính. Vạn bất đắc dĩ mới phải đánh dẹp. Ngừng một lát, với vẻ ưu tư đau đáu. Cặp mắt Hưng Đạo nheo lại, như đang dõi nhìn một điểm vô hình nào đó thiêng liêng lắm, khiến Nhân tôn đã định hỏi thêm một điều gì đấy, lại thôi ngay. Bỗng Hưng Đạo lên tiếng:
- Tâu bệ hạ, có một điều, thần cứ cân nhắc mãi, liệu có nên nói. Giọng ông ngập ngừng.
Trần Nhân tôn dự liệu, hẳn có việc gì tối hệ trọng, nên quốc phụ mới phải cân nhắc kỹ lưỡng như thế. Để khích lệ đấng bề trên, nhà vua khẽ thưa:
- Trình quốc phụ, xin quốc phụ cứ thực lòng dạy bảo. Trên vì nước, dưới vì nhà, chớ có điều gì tư kỷ đâu mà quốc phụ e ngại.
Hưng Đạo lấy làm đẹp ý, ông ve vuốt mãi chòm râu rồi tiếp:
- Việc Trịnh Giác Mật làm phản, khiến thần vô cùng lo lắng. Thần đã tự xét định xem, chính lệnh của triều đình có điều gì hà khắc? Các quan đại thần thay mặt cho triều đình chăn dắt dân lành, có gì khiên cưỡng bức bách họ? Song lại tự trả lời. Miền Đà Giang, Tam Đái Giang là phên dậu phía tây của triều đình, đã được cử các tướng giỏi như Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, sao lại có thể khinh suất về đối sách được. Tuy nhiên, xin bệ hạ cứ có nhời răn với Chiêu Văn vương, trước khi thượng tướng đem quân vào đất của Trịnh Giác Mật. Cứ theo chỗ thần biết, người Man một khi họ đã thần phục, thường không có chuyện vô cớ làm phản. Hiện nay, ngoài thì giặc Nguyên đang uy hiếp ta rất lớn. Nếu vạn nhất xảy ra chém giết lôi thôi ở Đà Giang, thần sợ không giữ được lòng dân ở các sách, động khác. Một khi phên dậu trống trải, sẽ nguy cho đại cuộc. Mong bệ hạ hết sức cẩn trọng.
Những lời răn tâm huyết của Hưng Đạo như là một sự tâm truyền, khiến Nhân tôn càng thêm kính cẩn với công việc.
Khi nhà vua giao trọng trách cho Chiêu Văn vương, người cũng nói lại tất cả các điều mà Hưng Đạo vương băn khoăn...
Khi tiễn Chiêu Văn vương ra cửa khuyết, nhà vua tự tay trao dây cương ngựa cho thượng tướng, và nói:
- Chúc chú mã đáo thành công.
- Xin bệ hạ yên tâm, Trần Nhật Duật thư thái đáp lời.
Trần Nhật Duật lập vương phủ ở gần cửa Đại Hưng. Nhà ông không lúc nào không có vài ba chục tân khách. Thôi thì…
( Sách thiếu 1 đoạn..)

Mọi người đều khen viên đầu bếp cao kiến. Và cuộc nghị bàn lập tức được giải tỏa. Ba ngày sau, quân do thám về báo, các việc Trần Nhật Duật nói trong thư, đều đã có làm. Và dân chúng các vùng đều muốn cầu hòa với triều đình. Trịnh Giác Mật bèn viết thư phúc đáp:
“… Mật này không dám trái mệnh, nếu ân chúa đi ngựa một mình đến bản doanh thì Mật xin hàng... “
Kèm theo đó là lời chỉ dẫn đường đi lối lại, nơi và ngày giờ đón tiếp. Nhận được thư của Trịnh Giác Mật với vài lời ngắn ngủi, Trần Nhật Duật đọc đi đọc lại tới cả chục lần. Ông cứ soi di soi lại tờ giấy trên ánh nắng, xem có còn mật ngữ gì ở trong nữa không. Xoay đi lật lại tờ giấy với vài hàng chữ, ông vuốt các mép cho thẳng, đặt ngay ngắn trên án và chặn ngang bằng chiếc bút lông thỏ, ông đi dạo quanh đám cây cảnh trong vườn. Đột ngột, Trần Nhật Duật dừng bước và ông đi thẳng vào trong nhà, lấy bút son phê dưới góc tờ thư: “Y hẹn, ta sẽ đến”. Rồi ông gọi đám thư nhi, đem trao lại cho Trịnh Giác Mật.
Quyết xong một việc, ông cảm thấy nhẹ nhàng. Trần Nhật Duật ôn lại những lời Trần Quốc Tuấn răn dặn ông qua nhà vua. Kiểm xét lại từng việc, ông thấy Quốc Tuấn quả là xét đoán công việc sáng suốt. Ông đã dò tìm, và thấy được đầu mối của sự bất hòa. Và ông tin, Trịnh Giác Mật đã lấy bụng thực đãi ông, cũng như ông yêu dân họ thật lòng. Bây giờ, ông đang ôn lại những điều thuộc về phong tục, lễ nghi của Trịnh Giác Mật. Từ lời ăn tiếng nói. Cách chào, hỏi, gọi, thưa. Cả cách ăn, cách uống. Các bài hát, các điệu múa, cũng như cung bậc thanh âm trong âm nhạc của họ. Và từ bữa ấy, ông luôn mở các tiệc vui, ăn uống, chúc tụng đều theo phong tục của họ. Bữa thì uống rượu bằng cần, xoay quanh một vò lớn để giữa nhà. Bữa thì đổ rượu ra bát lớn, rồi chuyền tay nhau mỗi người uống một ngụm, cứ thế hết lại rót. Bữa thì uống bằng sừng trâu, dùng lỗ mũi hít cho rượu chảy vào mồm. Cách này chỉ một mình Trần Nhật Duật uống được. Binh sĩ cứ cười lăn cười bò ra, có người sặc gần chết, thượng tướng phải lấy miệng mình hút vào mũi họ cho rượu ra hết. Rồi ông sai chất củi thành đống ở ngoài vườn đốt lên, tự ông lấy lá làm kèn, thổi vang những âm thanh kỳ ảo cho mọi người nhảy múa.
Sắp tới ngày vào trại của Trịnh Giác Mật, Trần Nhật Duật bèn họp tả hữu lại báo cho họ biết, tự thân ông sẽ đi thuyết phục viên tù trưởng làm phản. Quân sĩ xúm lại can ngăn không cho ông đi. Bởi ai cũng sợ tính tráo trở của họ.
Trần Nhật Duật dẫn giải mọi điều về bản tính của người Man. Và việc xảy ra để Trịnh Giác Mật làm phản, là một điều đáng tiếc. Chỉ vì quân sĩ không chịu nghe lời ông dặn. Rằng đối với người miền ngược, phong tục tập quán và tín ngưỡng của họ, còn thiêng liêng hơn pháp luật của người miền xuôi. Ông cũng rất đau lòng khi phải hạ lệnh chém đầu người lính đã xâm phạm vào đền thờ của họ. Nhưng ông đã ngầm sai lượm thi thể cho chôn cất trong hòm gỗ thơm, lại sức về quê quán phải chu tất cho cha mẹ người lính kia. Ông nói: “Ta phải giết một người lính của ta, cũng đau xót như ta phải giết con ta. Nhưng nếu không biết hy sinh tình cảm tư riêng, để cho một dải đất Đà Giang mênh mông này chống lại triều đình, trong lúc quân Nguyên đang dòm dỏ vào bờ cõi ta như cú dòm vào nhà bệnh, thì thật là có tội lớn với đất nước”. Ngừng một lát, ông lại thong thả nói tiếp: “Các dân tộc sống trên mảnh đất Đại Việt này, đều có chung một mẹ. Nhưng vì phong thổ đất đai, thời tiết khí hậu mỗi vùng mỗi khác, nên có phong tục riêng, nhiều khi lại có cả tiếng nói riêng. Mỗi dân tộc gìn giữ nền văn hóa của mình bằng các thuần phong mỹ tục, và nó được bồi bổ thêm qua nhiều đời tích tụ lại. Những nét riêng văn hóa ấy, các dân tộc đều phải trả bằng trí tuệ, mồ hôi, sức lực, và cả bằng máu nữa, nên hết thảy đều gìn giữ một cách kính cẩn, như đối với các ngôi đền thiêng. Kẻ nào đụng vào ngôi đền thiêng ấy, lập tức tự biến mình thành kẻ thù của họ. Vậy nên, ta khuyên các ngươi, không những phải trân trọng, phải bảo vệ nền văn hóa của dân tộc mình mà còn phải tôn trọng và bảo vệ các nền văn hóa của các dân tộc khác, và cả các quốc gia khác. Đối với Trịnh Giác Mật vừa qua, là một bài học, đã phải trả bằng máu. Các ngươi phải nhớ lấy nằm lòng, và cũng phải truyền đời lại cho con cháu...”.
Trần Nhật Duật tới trại Trịnh Giác Mật vào một buổi mai nắng đẹp. Quân sĩ một lần nữa xúm lại van ông không nên đi. Có người khóc. Ông nói:
- Các ngươi cứ để ta đi. Ta đi là đem theo cả tấm lòng nhân nghĩa của triều đình đối với dân họ. Nếu như Mật giáo giở với ta, thì triều đình còn có vương khác, tướng khác.
Trần Nhật Duật chỉ đem theo mình dăm bảy tên tiểu đồng và thư nhi. Ra khỏi quân doanh chừng hai chục dặm đã có người của Mật đón và dẫn di theo các lối xuyên rừng. Trời quang, mây tạnh, chim hót, vượn kêu, tiếng suối róc rách, tiếng thác đổ, tiếng gió ngàn reo, khiến Chiêu Văn vương cảm như mình đang lạc vào thế giới thần tiên. Vương đã đi tưởng như khắp nước, quả thật chưa biết cảnh nào ngoạn mục như cảnh ở đây. Đúng là cảnh sắc này đều nằm trong đất vùng ông trấn trị, mà sao cứ thấy nó lạ, nó đẹp. Đang đi giữa một ngàn hoa trắng, tưởng phải trải đến vô tận, nhưng vừa chớm ngoặt sang một nẻo đường quanh, lại đột ngột hiện ra một khung cảnh khác lạ. Đó là một khu rừng già với những cây cổ thụ thẳng tắp. Thân cao vời vợi, muốn nhìn thấu ngọn cây, phải ngả người ra phía sau, chóng cả mặt. Cây nào cây ấy to đến mấy người vòng tay ôm không xuể. Đúng là rừng trong rừng, cảnh trong cảnh, nó cứ thoắt giấu đi, thoắt mở ra, kỳ ảo khôn lường. Ông đã được xem nhiều bức họa cổ kim. Nhưng so với cảnh sắc thiên nhiên này, thì các đấng danh họa kia chỉ là mấy đứa trẻ nghịch ngợm màu mè. Rõ ràng chỉ có thợ Tạo mới là những tay nghệ sĩ hoàn hảo.
Khi nghe tiếng gà rừng gáy dồn dập, cũng là lúc mặt trời gần đứng bóng, bỗng vang lên đâu đó tiếng nhạc réo rắt, tưởng đó là âm hưởng từ rừng cây và các loài muông thú phát ra.
Như có một cái gì đấy làm xao xuyến, Trần Nhật Duật tiện tay bứt một cặp lá làm kèn đưa lên môi thổi. Tiếng nhạc trong trẻo vang xa như tiếng nói từ lồng ngực ông phát ra. Rừng cây bỗng im tiếng gió. Chim chóc thôi hót. Cây cao như rủ xuống lắng nghe. Tiếng nhạc, như thôi thúc, như nỉ non trách móc ai kia nỡ phụ lòng nhau. Lạ thay, khi nghe thấy tiếng nhạc, Trịnh Giác Mật như ngây như dại, như bồi hồi xúc động, như héo hon lòng dạ, như ăn năn hối hận. Mãi tới một phút sau ông mới định thần được và nói:
- Thượng tướng quân đã đến! Quân bay tấu nhạc lên!
Trịnh Giác Mật vừa dứt lời, thì cả một rừng âm thanh tóe ra. Người ta chỉ nghe thấy tiếng ầm ào của các nhạc khí như trống, chiêng, kèn, sáo đan xen với tiếng rừng và muôn loài cầm thú. Ấy là tiếng nói của rừng, của núi đang cất lên chào đón người anh em chí tình chí nghĩa từ kinh đô Thăng Long lên với họ.
Một rừng thương, gươm, giáo chĩa lên tua tủa và quây lại hàng chục vòng về phía đài cao, nơi Trịnh Giác Mật đang oai nghiêm đứng dưới lá cờ ngũ sắc.
Trần Nhật Duật để đám tiểu đồng ở lại dưới sàn, ông mặc áo bào trắng, thắt chiếc đai ngọc đỏ, đầu trần ngồi nghiêm chỉnh trên lưng con ngựa tía, thả nước kiệu đi về phía Trịnh Giác Mật.
Thấy thượng tướng đến, Trịnh Giác Mật từ đài cao vội vã bước xuống vái Trần Nhật Duật, và cung kính dẫn ông lên đài. Trần Nhật Duật nói một hồi dài những lời chào mừng bằng tiếng của họ, rồi quay lại ôm lấy vai Trịnh Giác Mật. Quân sĩ ở dưới reo hò tưởng đến long trời sập đất.
Nhận lời kết nghĩa anh em với Trần Nhật Duật, Trịnh Giác Mật đã trói sẵn một con sơn dương mới săn được từ chiều hôm trước cùng một con lợn và một con bê, đặt bên cạnh hai vò rượu lớn. Một chiếc đỉnh đồng hun to bằng chiếc nong, cao hơn đầu người đang đốt trầm hương nghi ngút khói. Bốn giá cắm đầy các đồ binh khí sáng loáng. Trịnh Giác Mật vận lễ phục màu chàm, thắt một chiếc đai đỏ thêu hoa kim tuyến, có dát ngọc sáng long lanh. Chân giận hia đen, thêu đôi chim trĩ trắng. Đầu để trần, tay ông nắm lấy tay Trần Nhật Duật đi vòng quanh đài cao vẫy chào đám binh sĩ đông như kiến. Trở về đứng trước đỉnh trầm và các đồ tế khí cùng các con vật hiến sinh, ông bụm tay lại làm loa nói lớn:
- Bớ quân sĩ ! Hôm nay ta làm lễ kết nghĩa anh em với thượng tướng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Ta với tướng quân kết nghĩa anh em, cũng có nghĩa là người Kinh, người Man kết nghĩa anh em. Xin thề từ nay hoạn nạn có nhau, vinh hiển có nhau. Ai tự ý phụ nghĩa vong ân thì trời tru đất diệt, sẽ bị chết thảm thương như những con vật hiến sinh đây !
Trịnh Giác Mật vừa liếc nhìn vừa chỉ tay vào ba con vật, lập tức có hàng chục lực sĩ nhảy lên đài, kéo những con vật kia ra chọc tiết. Máu được hứng vào hai vò rượu lớn. Trịnh Giác Mật nhúng cả tay vào dòng huyết mấy con vật đang tuôn chảy, rồi vẩy lên các đồ tế khí. Đoạn ông lấy một chiếc tô lớn, múc đầy một tô rượu đã hòa máu tươi, chìa về phía Trần Nhật Duật. Hai người cùng đỡ tô rượu, cùng đặt miệng vào lợi tô và cùng hút một hơi cạn sạch.
Đoạn, hai chủ tướng quay ra, mời đám binh sĩ dưới đài cùng uống rượu. Thế là ba quân xông vào chia nhau mỗi người một hớp, chỉ trong thoáng chốc, hai vò rượu cạn kiệt. Và tiếng hô: “Triều đình vạn tuế!”. “Đức Nhân tôn thiên tuế !” cứ vang ầm lên như muốn dịch chuyển cả núi rừng.
Sau lễ thề là đại tiệc. Rượu để la liệt từng chum, từng chum. Các đống lửa đốt đỏ cả trời, than hồng rực. Hàng đàn, hàng đàn các con vật như dê, nai, lợn được treo nướng trên than lửa. Mỡ cháy xèo xèo, ngọn lửa xanh ngút, khói tỏa mùi thơm ngọt ngào. Hàng đống sừng trâu để làm đồ múc rượu. Và muối đặt từng chậu, từng chậu. Tiệc vui không chia ngôi thứ. Tất cả đều xông vào nắm lấy sừng trâu mà múc rượu. Rồi nhảy vào xé thịt nướng ăn. Hết thảy đều tu rượu bằng mũi, xé thịt bằng tay. Trần Nhật Duật cũng lăn xả vào uống ăn như họ, không chút nề hà ngượng ngập. Rồi cùng ôm lấy họ mà múa, mà hò reo vang ầm như thác đổ.
Đám quân sĩ từ già đến trẻ, đều yêu thích Trần Nhật Duật. Họ trỏ vào ông mà rằng: “Tướng quân đúng là người dân tộc chúng tôi”.
Vậy là sau hội thề và lễ kết nghĩa, mọi nghi kỵ cừu thù đều được gạt bỏ. Và cha con Trịnh Giác Mật theo Trần Nhật Duật về triều ra mắt Nhân tôn.
Chiến công của Trần Nhật Duật, làm nghiêng lệch định kiến của các bậc lão thần về tài năng xuất chúng, trí dũng cùng nhân nghĩa song toàn của viên tướng trẻ. Trận thắng tuyệt luân, không mất một mũi tên, đã đẩy oai danh Trần Nhật Duật lên tót vời.
Trần Nhân tôn hết lời khen ngợi quốc thúc thượng tướng quân. Nhà vua cũng ra sức vỗ về cha con Trịnh Giác Mật, vinh thăng cho Mật hai cấp và lưu người con trai của Mật lại triều. Trần Nhật Duật nhận con của Trịnh Giác Mật làm nghĩa tử. Nhà vua ban cho y tước thượng phẩm, và tạm giao cho chức canh trì. Tức là trông nom ao cá của nhà vua, chờ xem sở trường nẩy nở về mặt nào mà trao việc cho xứng với tài đức Vậy là Đà Giang lại trở thành miền phên dậu vững chắc hơn xưa để che chắn cho kinh sư.

CHƯƠNG 5 :


Sẩm tối, nhà công quán sáng choang ánh đèn. Cỗ bàn sắp đặt linh đình. Các quan tiếp sứ luôn đến vấn an Sài Thung, nhưng y vẫn nằm quay mặt vào tường không nói một lời. Trần Quang Khải khẽ kéo ghế ngồi xế phía đầu giường Sài Thung, tìm hết lời nói nhún để y nguôi giận. Sự thật, quan Thái sư không lạ gì lối làm phách của lũ “con trời” này. Bọn chúng luôn kiếm cớ gây bất hòa. Và nếu ta càng lui, y càng lấn.
Quang Khải phải nén lòng để lấy lại sự ôn nhu, ông nói:
- Đại nhân đến nước chúng tôi. Quốc vương tôi phải cử tướng quốc lên tận biên ải tiếp rước. Nay đã tới quốc đô, thế nào quốc vương tôi cũng làm lễ tiếp kiến đại nhân. Việc gì đại nhân phải nóng vội. Đám quan quân của chúng tôi ngu dại, đã phạm phải oai ngài. Nhưng thực tình, chúng không có lỗi. Luật lệ của nước chúng tôi như thế. Cửa Dương Minh này cũng như cửa Ngọ môn bên quý quốc, chỉ có kiệu của nhà vua và thượng hoàng qua lại. Ấy là sự phân biệt trên dưới của một nước có kỷ cương. Tôi chắc bên thượng quốc cũng không thể làm khác được. Đại nhân không nên đòi cái mà ngài không thể đòi được.
Vừa nghe Trần Quang Khải khích, Sài Thung nộ khí xung thiên, bèn ngồi nhổm dậy quát:
- Các ngươi lớn mật, dám phạm tới oai trời. Phải biết rằng, thiên triều muốn là được. Nếu các ngươi thích cãi lý, thích ngang đầu cứng cổ thì không cần tiếp sứ nữa, cứ việc sửa sang thành quách cho vững, mài dũa khí giới cho bén để mà cãi lý với đại quân thiên triều.
- Sài Trang khanh đại nhân ! Theo chỗ tôi được biết, ngài vốn xuất thân khoa bảng, lại thấu hiểu nhẽ đời, và đã trải đủ bước thăng trầm của thời thế. Hiện giữ chức lễ bộ thượng thư.- Quang Khải biết tên Hán gian này xuất thân nho sĩ, đã phản bội Tổ quốc làm chó săn cho bọn xâm lược Hốt-tất-liệt. Vả lại trong thù tiếp, ông cũng biết y có tính háo danh, háo thắng, nên ông đang tìm cách lấy lòng hắn - Đại nhân là người kiến văn thâm viễn, hiểu thấu được cả nhẽ huyền vi của trời đất (Quang Khải cũng biết Sài Thung rất mê bói Dịch), nhẽ nào đại nhân lại không thương đến dân tôi, trước sau vẫn một lòng thờ thượng quốc. Nay đại nhân đã tới nước chúng tôi, nếu có điều gì chưa được như ý, xin đại xá cho.
- Ta muốn gặp quốc vương An Nam, nhưng phải xây cầu vồng qua cửa Dương Minh để ta đi vào đại điện. Chừng nào chưa xây xong cầu cho ta đi, các ngươi chớ đến quấy rầy ta.
Sài Thung nói xong quay ngoắt, y nằm xuống giường, mặt úp vào tường.
Quang Khải giận lắm, bỏ ra về. Từ hôm sau, Sài Thung hạch sách các thứ ăn uống thật là quá quắt. Những món ăn cực hiếm như chân gấu hầm hoài sơn. Nầm sữa lợn rừng. Cò lửa, chim cuốc, rắn hổ mang gầm, cho vào hầm cách thủy bằng rượu với một số vị thuốc, và nhiều các món ăn kỳ quái khác. Ngay việc phục dịch được đầy đủ thực đơn hàng ngày của y, cũng là cả một khó khăn đối với triều đình. Những món ăn cầu kỳ đến mức bệnh hoạn ấy, vua tôi nhà Trần, cho đó là những đòi hỏi ngoài nghi lễ bang giao và sự ăn uống. Đây chính là nguyên cớ để sứ giả bất bình mà tuyệt đường giao hiếu. Và sau đấy là quân xâm lược ào vào. Vì vậy, cả triều đình đã cắn răng nhẫn nhịn để chiều sứ giả, cốt giữ cho hòa bình được ngày nào hay ngày ấy.
Sài Thung đã nhúc nhích đi lại dò xét các nơi trong kinh thành, nhưng không tiếp một đại thần nào của ta, cũng không ngỏ ý yết kiến quốc vương ta. Tuyệt nhiên y không lộ một yêu sách nào của Hốt-tất-liệt.
Để tận mắt thấy tên sứ giả nhà Nguyên - một tên đại Hán gian phách lối thế nào, Trần Hưng Đạo bèn tới nhà công quán. Ông vận một bộ đồ vải nâu, đầu trần. Đến sứ quán, ông vào thẳng phòng trong. Sài Thung đang nằm đọc sách, thấy Hưng Đạo tới, vội đứng dậy vái chào, mời ngồi. Trong khi ngồi uống nước thù tiếp, tên người hầu của Sài Thung cầm cái tên nhọn giấu trong tay áo, chọc vào đầu Hưng Đạo tóe máu ra.
Sài Thung là một tay mê bói Dịch, lại ham thích khoa nhân tướng. Y cứ ngắm nhìn mãi khuôn mặt của Quốc Tuấn. Từ vầng trán cao vuông vức, đến cặp mày lưỡi mác xanh đen, và đôi mắt sáng long lanh, tựa như nơi hai đồng tử luôn tỏa ánh hào quang. Có lúc y nhìn thẳng vào gương mặt Quốc Tuấn, bắt gặp ánh mắt của ông chiếu vào, y không chịu nổi, đành phải quay di, hay vờ cúi xuống. Y có cảm giác, con người này khí lực sung mãn tới dư thừa. Mà oai phong lại nảy sinh từ cặp mắt và giọng nói. Toàn bộ khuôn mặt ông ta từ tam đình, ngũ nhạc đều toát lên vẻ đắc cách thượng thừa, có uy nghi đế vương thần thánh. Chỉ mới qua tướng mạo bề ngoài của Quốc Tuấn, đã làm Sài Thung đâm nể kính. Y nói năng tỏ ra lễ độ và có phần hơi lúng túng. Sau vài ba tuần trà, Quốc Tuấn nói:
- Thấy nói có đại nhân từ thượng quốc sang, ta ghé thăm sức khỏe. Rồi ông cáo biệt.
Sài Thung theo tiễn ra mãi tới cổng ngoài còn cung kính vái theo. Vào nhà, tên hầu mới thuật chuyện, khi đứng mời nước phía sau vị khách, y đã lấy mũi tên chọc chảy máu đầu ông ta. Sài Thung lấy làm kinh sợ, vì y không nhận thấy một nét gì biến đổi trên gương mặt khách.
Mấy năm sau, khi được biết con người đã có lần y thù tiếp và ngờ ngợ là một hòa thượng, chính là người thống lĩnh đội quân nhà Trần, đã đánh tan nửa triệu thiên binh của nhà Nguyên với các đệ nhất danh tướng của Hốt-tất-liệt, thì Sài Thung lại càng kinh ngạc và thầm kính phục con người ấy.
Độ năm bảy ngày sau khi Sài Thung tới quốc đô nước Nam, đám quân trong sứ đoàn đi thu thập tin tức về báo. Tại Thăng Long có hai nhà buôn người Hồi-hột, được thiên tử nhà Nguyên cấp vốn cho vào đây buôn bán. Mấy năm đầu, do tính nết thuần phác, lại không có ý dòm ngó gì vào nội tình của nước Nam, thì sự nghiệp phát đạt lắm. Chỉ ba năm sau từ Yên Kinh tới đây, bọn chúng đã có số vốn nhiều gấp mười lần. Nhưng mấy năm sau, bọn này ráo riết dò xét công việc cua người Nam lộ liễu quá. Triều đình nhà Trần cấm dân chúng của họ không được mua bán giao thiệp gì với đám thương nhân Hồi-hột. Bọn này không những không thu thập được tình hình mà còn bị phá sản. Và hiện thời chúng lưu tán ở đâu cũng chưa dò được tung tích.
Đi sâu vào các miền quê, thấy dân tình của họ no ấm. Mới vụ mùa vừa rồi lúa tốt bội thu. Có nơi mỗi chiếc đòng trổ ra hai bông lúa to như những chiếc đuôi trâu. Đi về nẻo nào cũng thấy dân binh luyện tập chăm chỉ lắm. Quốc đô của họ, ngoài quân cấm vệ ra, không thấy động tĩnh gì. Không biết họ giấu quân ở đâu. Còn như chiếc cầu vồng, quan chánh sứ ta đòi họ phải xây vắt qua cửa Dương Minh, cũng không thấy họ đả động gì tới…
Nghe xong mọi việc của bọn người được nhà Nguyên gài lại Thăng Long do thám, cũng như các việc mà bọn trong sứ đoàn đi thu thập, Sài Thung tự nghĩ: “Vậy là những gì ta làm, vua tôi nhà Trần đều biết và ngăn chặn. Những gì ta đòi, nếu không phạm vào quốc thể của họ, họ đều đáp ứng. Rõ ràng vua tôi nhà Trần thần phục vờ, và đang ngấm ngầm rèn quân tích lương đón đợi cuộc chinh phạt của thiên triều”.
Qua những gì thu nhận được, Sài Thung định bụng phải thay đổi kế sách. Y mỉm cười, ngồi vào án thư thảo điệp văn gửi vua Trần: “Ta bằng lòng diện kiến quốc vương An Nam theo nghi lễ của quý quốc”.
Một tờ khác y gửi tới Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc, lời lẽ rất khiêm nhã. “Từ lâu tôi đã được nghe danh vương, trong lòng rất lấy làm kính trọng. Vẫn thầm mơ ước có ngày được diện kiến. Lần trước cầm đầu sứ đoàn tới Thăng Long, tôi đã có ý đến thăm vương. Song vì công việc thiên tử giao cho chưa làm trọn, nên chưa dám nghĩ đến việc riêng. Kíp đến khi hoàn tất thì vương đã đi trọng nhậm tại vùng Tam Đái Giang. Thế là Thung này đành ngậm ngùi trở lại Đại đô. Mới hay: quý nhân nan kiến diện. Nay nhân lúc rảnh rỗi chờ hội kiến với quý quốc vương, nên gửi tờ thư này mong được vương nhận lời thù tiếp tại quí vương phủ. Ngày giờ do vương liệu định. Thư nói chẳng hết lời”.
Cuối thư, Sài Thung hé lộ một cách kín đáo chức tước mà y vừa được Hốt-tất-liệt sách phong. Y viết hết sức nắn nót, khiến nét chữ mất đi phần hồn nhiên sắc sảo vốn có: “An Nam phó đô nguyên súy Sài Trang khanh kính báo”.
Triều đình được thiếp báo của Sài Thung, bèn hẹn ngày tiếp sứ để nhận chiếu của Hốt-tất-liệt. Sớm ấy, đám quân khiêng kiệu đón Sài Thung vừa tới chân cửa Dương Minh thì hạ đòn. Đúng lúc, Trần Quang Khải dẫn đầu đoàn các quan của triều đình ra đón sứ. Sài Thung với vẻ mặt không tỏ ra giận dữ, cũng không lộ vẻ thân tình, đi theo các quan vào triều. Khi Sài Thung tới giữa sân rồng thì nhạc quốc thiều tấu lên và đích thân Trần Nhân tôn bước xuống bậc tam cấp đón y.
Nhang án bày sẵn, đỉnh trầm đốt từ sớm, mùi hương sạ bay thơm ngào ngạt. Sài Thung bóc niêm phong chiếc hộp sơn son thếp vàng, rồi mở nắp lấy ra một tờ chiếu của nhà Nguyên trao cho vua Trần. Trần Nhân tôn đưa hai tay đỡ một cách kính cẩn. Nhà vua không lạy chiếu thư mà chỉ nói một lời chúc xã giao đối với nhà Nguyên: “Thiên tử vạn tuế !”.
Rồi nhà vua đặt tờ chiếu lên hương án. Lễ tiếp chiếu thư xong, Nhân tôn mời trà sứ đoàn. Và sau đó là đưa thiếp mời Sài Thung đến dự dạ yến.
Tiễn sứ đoàn về nhà công quán xong, vua Nhân tôn bèn triệu các quan văn võ vào nghị bàn về các yêu sách của nhà Nguyên.
Đại khái trong chiếu, vua nhà Nguyên trách quân trưởng của ta trải ba đời chưa vào chầu. Hốt-tất-liệt nhắc lại các việc từ trước nhà Nguyên vẫn đòi:
- Quân trưởng phải vào chầu.
- Con em phải sang làm con tin.
- Kê biên dân số.
- Phải chịu quân dịch.
- Phải nộp tô thuế.
- Vẫn đặt chức Đạt-lỗ-hoa-xích( toàn quyền) để cai trị.
Cuối chiếu, Hốt-tất-liệt nhấn thêm: “Đây là tuân theo thánh chỉ của đức thái tổ cao hoàng đế (tức Thành-cát-tư- hãn) thi ân cho các nước quy phụ. Mấy việc trên là để tỏ lòng thành của kẻ thuần phục. Khanh làm được đủ các điều đó, há sao trẫm còn nghi ngờ gì nữa mà không tin yêu?”.
Đọc xong, Nhân tôn nói:
- Các yêu sách trên đây của nhà Nguyên không có gì mới. Từ thời thái thượng hoàng, họ đã đòi ta như vậy. Tiên đế cũng như thượng hoàng, chưa bao giờ chấp nhận được một điều gì của họ. Bởi nếu vậy, ta sẽ là đất quận huyện của nhà Nguyên, chớ còn chi là chủ quyền của một quốc gia.
Các quan đều tỏ ra bất bình. Nhất là sự vô lễ và ngạo mạn của Sài Thung, khiến nhiều vị đại thần đòi phải trị cho hắn một trận, như xưa kia tiên đế đã trừng trị Trương Đình Trân.
Thấy các quan phẫn nộ, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải bèn nói:
- Vâng thánh chỉ, tôi lên tận biên ải đón Sài Thung. Thực quả y là một kẻ kiêu ngạo. Nhưng nghĩ cũng thương tình, vì rằng các vương tử phủ Hưng Đạo đã đánh một trận hết sức ngoạn mục, khiến y đau mà không kêu vào đâu được. Thành thử y tìm mọi cách trả thù. Đây là một tiểu tâm thù vặt có tính truyền thống lâu đời, từ thiên tử tới các bậc đại quan bên thượng quốc đối với các lân bang, mà họ thường gọi một cách xách mé là tứ di. Bệnh này đã ăn sâu vào tới cao hoang từ đời Hán, Đường, Tống tới nay không thuốc nào chữa trị được đâu Ngoại trừ ta có sức mạnh như thời Lý Nhân tông, dùng Lý Thường Kiệt với kế “Tiên chế phát nhân”( tiến công để phòng thủ).
Thái úy Trần Quang Khải vừa dứt lời thì thượng vị
Chương Hiến hầu Trần Kiện tiếp ngay. Kiện là con của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Khang là con nhận của thái thượng hoàng, về ngôi thứ là anh Thánh tông, là bác của Nhân tông. Vì thế Kiện là anh em thúc bá với nhà vua.
( Trần Quốc Khang, nguyên là con của Thuận Thiên với Trần Liễu. Khi Thuận Thiên đã có mang với Trần Liễu được ba tháng, theo ý của Thiên Cực công chúa với Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường Thuận Thiên cho Trần Thái tôn. Vậy là nhà vua buộc phải lấy chị dâu mình làm vợ.)
Kiện nói:
- Liệu nước ta so với nước Tống ai yếu ai mạnh? Đất nước ta so với đất nước Tống ai lớn ai nhỏ?
Kiện đặt ra hai câu hỏi, lại tự trả lời:
- Lực của ta so với lực Tống như con kiến so với con voi. Đất ta so với đất Tống như chiếc khuy so với cả chiếc áo. Ấy vậy mà nước Tống bị vó ngựa Thát-đát đạp đổ thành trì, vua tôi khốn đốn, nhà Tống diệt vong.
Nước ta, hồi còn tiên đế quả có đánh thắng quân Thát-đát khi chúng đem binh vào cõi. Nhưng lực của Thát-đát năm Đinh tỵ (1257) so với lực nhà Nguyên hiện nay, thật là một trời một vực. Xin bệ hạ hãy cân nhắc cho thận trọng. Tôn miếu, xã tắc, số phận mất hay còn của hàng triệu sinh linh, đều nằm trong tay bệ hạ; không thể xem như là việc dốc túi đánh một nước bạc cuối cùng, rồi muốn ra sao thì ra.
Nói xong, Kiện ngồi xuống cứ xoay đi xoay lại chiếc mũ bình thiên ở trên dầu. Kiện có thói quen nghịch mũ. Và đó là cử chỉ tự hài lòng.
Vua Nhân tôn đưa mắt nhìn khắp lượt xem triều thần còn có ai muốn nói nữa.
Nhà vua thấy Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đang nhúc nhắc xem lại chỗ ngồi. Quả là Ích Tắc xin được nói.
Nhà vua vẫy tay khích lệ. Ích Tắc là con thứ ba của thái thượng hoàng, là em kế của thượng hoàng Trần Thánh tông, và thái úy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, tức là chú ruột nhà vua. Ông có một đầu óc thông tuệ khác thường. Ông cũng là người tài hoa bậc nhất kinh thành: cầm, kì, thi, họa ngón nào cũng tinh thông. ông có mở trường dạy học tại nhà. Học trò của ông thuần những tay thần đồng cự phách, như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Phóng... được ông tuyển lựa và gom về nuôi, dạy. Gần đây ông mới được nhà vua tấn phong thượng tướng trấn trị lộ Tam Đái Giang. Có thể nói, sau Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, ông là người được cả triều đình kính nể, trước hết bởi học vấn uyên bác hơn đời.
Nhẹ dưa hai bàn tay sửa lại chiếc mũ đội đầu, xốc lại cổ áo sau đó e hèm hắng giọng, Trần ích Tắc nhìn khắp cử tọa, rồi ông dừng cặp mắt phượng nơi Trần Kiện, nửa như đồng tình, nửa như răn dạy, ông nói:
- Không hẳn như thượng vị Chương Hiến hầu đã nói, Đại Việt ta vua tôi đều dốc lòng vì nước, sức mạnh đó không thể hình dung hết được đâu. Các bậc minh quân và tướng giỏi xưa nay đều xem sức mạnh lòng người như là một đội quân bất khả chiến thắng. Vả lại đã gọi là binh, thì không nên đem ra tranh cường. Bất đắc dĩ có phải sử dụng đến, chỉ nên dùng vào việc cứu dân, trừ bạo nghịch - Dừng một lát, ông lại nói: - Tuy nhiên, ta cũng đã đọc nhiều sách, tham bác việc dùng binh các đời, chưa từng thấy có thời nào, nước nào, người nào lại dùng binh một cách tuyệt luân như người Thát-đát. Đưa ngựa vào việc binh, thì từ thời thượng cổ, người Trung Hoa cũng đã có dùng vào việc kéo xe. Nó chỉ là một phương tiện cho con người. Hoặc để đi xa, đi nhanh, giúp cho con người đỡ mệt. Nhưng ngựa trong tay người Thát-đát, nó không chỉ là phương tiện, mà còn là mục đích của việc binh. Bản thân nó được xem như là một tân vũ khí lợi hại, nhân loại chưa từng biết. Vì vậy, người Thát-đát đã tung hoành hầu khắp gầm trời này, gần như không có đối thủ. Trung Nguyên đất rộng, người đông, của cải, tài trí đâu có thiếu. Trí như Văn Thiên Tường, dũng như Vương Công Kiên không phải là ít. Ấy vậy mà các vua Tống từ Tống Cung đế Triệu Hiển đến Tống Tường Hưng kẻ bị bắt đưa về Đại đô, kẻ nhảy xuống biển mà chết. Nhà Tống tuyệt diệt. Các việc sờ sờ ra đó, Đại Việt ta không thể không tham bác cho cạn nhẽ, kẻo lỡ mất cơ hội tốt. Bởi vậy, việc tiếp sứ là một việc tế vi không thể khinh mạn người ta được. Là nước bề tôi, ta phải khu xử khôn khéo. Sao cho giữ được quốc thể, lại không mếch lòng sứ. Nếu sứ thần bất mãn, thời chẳng mấy chốc lại dẫn tới can qua.
Chiêu Quốc vương nói chưa dứt lời thì có điệp văn của Sài Thung từ nhà công quán gửi tới.
Vua Nhân tôn trao cho hàn lâm thị độc, tuyên đọc cho cả triều đình cùng nghe. Quan hàn lâm cao giọng:
- …Bữa trước, tiếp chiếu của thiên tử nhà Đại Nguyên, quốc vương An Nam đã không chịu lạy chiếu. Nay thết yến sứ giả thiên triều, lại định bày ngoài hành lang đại điện. Thật là một sự khinh mạn. Sứ giả nhà Đại nguyên báo cho nhà vua được biết, nếu dạ yến không được đặt tại điện Tập Hiền thì sứ đoàn chúng tôi xin cáo thoái...
Việc này không phải bàn bạc gì. Vua Nhân tôn chấp thuận yêu sách của Sài Thung. Các đại thần cũng cho là phải. Bởi lẽ việc đó không có gì phương hại đến quốc thể. Song ai cũng lấy làm ngạc nhiên và tự hỏi: - “Tại sao Sài Thung lại trở nên ôn hòa đến như vậy?”.

CHƯƠNG 6 :


Nhận được thư của chánh sứ Sài Thung, Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc cứ đọc đi đọc lại mãi không thôi. Vương tự lấy làm hài lòng. Vì danh tiếng của vương không những chỉ lẫy lừng trong nước, mà ngay cả Đại đô, người ta cũng biết tới. Và Sài Thung, ai cũng bảo y là kẻ kiêu ngạo, nhưng với riêng ta, Sài thượng thư lại hết sức khiêm nhường. Phải chăng Sài Thung có tư tình gì với ta? Hoặc giả mọi người đã quá khắt khe với ông ta?
Chiêu Quốc vương chăm chú nhìn nét chữ Sài Thung viết trong phần phẩm tước mới của ông ta: “ An Nam tuyên úy phó đô nguyên súy”. Ơ hay, sao nét chữ có phần run run? Ông ta xúc động hay dè dặt? Ông ta thích thú hay ngượng ngùng? Vì chức quan này do Hốt-tất-liệt tấn phong, có nghĩa là nhà Nguyên đã chính thức coi nước ta như quận, huyện của họ. Có đúng họ đã sắp đặt xong vận mệnh của Đại Việt? Và Sài Thung sang ta lần này là để áp đặt cái mà cuộc xâm lăng năm Đinh tỵ (1257) do Ngột-lương-hợp-thai(Uryangqadai), cùng với năm vạn quân của y không làm dược. Lại mới đây, Sài Thung cũng đã trắng tay năm ngàn quân với cả triều đình bù nhìn Trần Di Ái.
Chiêu Quốc vương lại tự hỏi: Tại sao Sài Thung căng cứng với mọi người, kể cả quốc vương Nhân tôn mà chỉ có riêng ta được y biệt đãi? Có ý mua chuộc hoặc chia rẽ gì ở đây chăng? Dù sao thì y cũng là người có biệt nhỡn. Ta không thể đãi y như đãi một người thường. Nghĩ vậy, Trần ích Tắc bày tỏ mối thiện cảm của mình với vị sứ giả thiên triều. Và hẹn ngày giờ nghênh tiếp sứ tại vương phủ.
Cùng với việc mời Sài Thung, Chiêu Quốc vương cho sửa sang quét tước, cũng như sắp đặt lại các đồ trần thiết trong vương phủ.
Phủ Chiêu Quốc không phải là phủ lớn nhất, nhưng là phủ đẹp nhất trong tất cả các vương phủ ở kinh thành Thăng Long. Phủ đệ nằm trên một doi đất vuông vức, ước độ hơn một trăm mẫu, xế cửa Quảng Phúc, ở phía tây Thăng Long thành chừng hơn một dặm. Bốn bề có thành đất bao quanh, có lũy tre dầy ken kín. Lại có hào chạy theo thành lũy. Hào có đường ăn thông ra hồ Dâm Đàm (Hồ Tây ), rồi ra sông Cái. Con hào này rộng tới bảy trượng, sâu hai trượng, thuyền bè đi lại thuận tiện như đi trên mặt sông. Hào có nhiều nhánh, chảy uốn éo theo hình thể các khoảnh vườn và chia làm ba nhánh như ba con rồng chầu về hoa viên, nằm ở trung tâm vương phủ, ngay trước nhà đại bái. Hoa viên trồng đủ các loại kỳ hoa dị thảo, ngay đến cả vườn ngự uyển của đức vua, cũng chưa chắc đã hơn được. Bốn mùa hoa nở khoe sắc, khoe hương, muôn hồng ngàn tía. Chính giữa hoa viên là một hòn non bộ, cao tới hơn mười trượng, đồ sộ như trái núi thật. Xung quanh non bộ là khe, suối, ngòi, lạch. Và giữa các đỉnh núi nhỏ được bắc những chiếc cầu cong như vành lược, rộng chưa đầy gang tay, dài ngắn độ vài thước. Lại có người bằng đất nung, bày thật là ngoạn mục. Đám này một bàn cờ, mỗi bên là một tiên ông với chòm râu dài quá ngực, đang chăm chú nghĩ suy. Đám kia là văn nhân, xe, ngựa, kiệu, võng thật là nô nức, như cảnh trảy hội, hoặc tiến sĩ vinh quy. Loáng thoáng nhú từ kẽ đá mọc lên một vài cây tùng, nom gân guốc như thách thức với cả thời tiết và thời gian. Và dưới các tán cây cổ thụ trong vườn nổi lên những mái đình xinh xắn, ngói đỏ, rêu phong theo kiểu phương đình, bán nguyệt, ngũ giác, lục giác, bát giác... Mỗi đình có một tên gọi riêng: nơi là đình Tị huyên, nơi là đình Nghênh xuân, lại có đình Tịnh tâm, và cả đình Nghênh tiên và nhiều tên đình khác nữa, để Chiêu Quốc vương ghé nghỉ khi dạo vườn cho hợp với tình cảm và tâm trạng của chủ nhân lúc đó. Các đình đều để thông gió bốn mặt. Ba nhánh ngòi chầu về hoa viên đều được bắc ba cây cầu vồng bằng gỗ. Mỗi cây cầu là một công trình khắc trạm rất tinh vi. Đoạn thì phượng múa, rồng chầu. Đoạn thì theo bốn mùa: tùng, cúc, trúc, mai. Đoạn thì tứ dân: ngư, tiều canh, mục... Và trong khắp dinh phủ, nếu Chiêu Quốc vương có nhà, thì đi về phía nào cũng nghe thấy tiếng đàn, địch, ca hát. Trong vương phủ có cả một đội nhạc công, ca công và một bầy vũ nữ. Hát, múa hay phô diễn làn điệu, tích điển gì đều do tay Chiêu Quốc vương soạn lời, chế nhạc và truyền dạy. Lại có cả một tòa nhà bày đặt tranh, tượng mà Chiêu Quốc vương đã dày công sưu tầm trên dưới hai mươi năm nay. Nghĩa là từ khoảng mười bảy, mười tám tuổi, Chiêu Quốc vương đã đem lòng yêu thích nghệ thuật hội họa, và đã có ý thức lưu giữ những tác phẩm nổi tiếng. Cho tới năm ngoài hai mươi tuổi, hiểu được ít nhiều về đường hội họa, và cũng có đôi khi cầm tới ngọn bút lông nhúng vào nghiên mực, và suy tư trước giá căng lụa. Và cũng nhiều lần suýt thành công trong một bức sơn thủy họa. Sau đó có một danh họa của nhà Tống từ Hàng Châu ghé thăm, có được xem phòng tranh sưu tập của Chiêu Quốc vương. Và cũng được Chiêu Quốc vương cho xem đôi bức họa của ông. Nhà danh họa kia lấy làm kinh ngạc về những ý đồ thể hiện trên tranh của tác giả. ông phải thốt lên: “Một tâm hồn nghệ sĩ. Một con người đam mê nghệ thuật. Một tài năng bạt quần”. Nhưng rồi ông lắc đầu. Chiêu Quốc vương gặng hỏi mãi, nhà danh họa mới đáp: “Chỉ đáng tiếc là các hạ chưa biết sử dụng ngọn bút lông. Nên nét vẽ không tuân theo nếp nghĩ của các hạ” .
Chiêu Quốc vương lấy làm tâm phục nhà danh họa, và cố ý lưu ông lại vương phủ được hai tháng. Ông có giảng giải cho Chiêu Quốc ít nhiều về nghề họa. Sau Chiêu Quốc có vẽ được dăm bảy bức vào loại khá, không kém tranh Tống. Nhưng tự thấy không thể tiến xa hơn trong hội họa. Vả lại, hội họa ở Đại Việt, ông cũng không có đối thủ, nên chẳng còn mấy hào hứng theo đuổi. Tuy nhiên, về đường thơ văn, người đương thời vẫn khen ông có chất rắn rỏi, gân guốc của đời Hán, lại có sự nhuần nhị, bóng bẩy mà siêu thoát của thịnh Đường. Về thi, thư năng lực của ông ít ai sánh kịp. Còn đường, cầm, ca, họa, nhạc. Ông không chỉ là người sành thưởng thức, mà còn là người sáng tác bậc thầy. Thế nhưng ông cũng khá am tường về đằng võ bị. Ngay trong vương phủ, ông cũng lập được hai Đô vào loại tinh binh. Còn trong thái ấp, ông có tới bốn Quân là đám quân luân phiên vừa làm ruộng vừa luyện tập. Việc luyện tập cung tên, đao, kiếm, thủy bộ thế nào đều do đích thân ông xem xét. Ông lại thường đem binh thư ra giảng cho các tướng dưới quyền. Cũng có đôi ba lần ông sang chơi bên phủ Hưng Đạo để tham bác cách dạy tướng, rèn quân và cách hành binh bày trận của Trần Quốc Tuấn. Kể cả việc ông về ấp An Sinh xem Quốc Tuấn rèn binh, tập trận. Trong thâm tâm, ông không phục Quốc Tuấn lắm. Vì Quốc Tuấn không theo đúng sách của các nhà Tôn - Ngô thời cổ.
( Theo tổ chức quân đội nhà Trần của Trần Quốc Tuấn thì một đô có 80 người. Mỗi quân có 30 Đô = 2.400 người. Nhà Trần vẫn tổ chức quân đội theo chính sách “Ngụ binh ư nông” có từ đời Lý.)
Mấy bữa nay ông cho dọn dẹp dinh phủ để đón Sài Thung. Ông để mắt tới mọi nơi, mọi chỗ. Răn dạy kẻ hầu người hạ từng li từng tí. Rồi đám môn khách và học trò, ông cũng giảng giải để họ thấy, sao cho qua cuộc tiếp kiến này, Sài Thung phải kính nể giới sĩ phu Đại Việt và nền văn hiến Thăng Long. Ông đã từng mở mắt cho biết bao sứ đoàn qua thăm Đại Việt. Duy có Sài Thung, trước sau vẫn kiêu ngạo. Ông chắc lần này, y phải thay đổi các định kiến cố hữu của nòi đại Hán.
Một hôm ông đang huấn dụ đám học trò thì có quân vào bẩm: “Hưng Đạo vương và hoàng cô An Tư tới thăm”. Cũng là tình cờ, Trần Quốc Tuấn vừa ở Giảng võ đường đi ra, chợt thấy tiếng vó ngựa phi gấp ở phía sau. ông thả cương cho ngựa đi nước kiệu. Một con ngựa bạch tiến sát con tía mật của ông, chỉ kém một cái đầu. Có tiếng chào trong trẻo: “Kính chào vương huynh”. Ông ngoảnh lại, thấy công chúa nai nịt gọn ghẽ như một kị sĩ. Sắc phục thuần một màu trắng, điểm thêm những bông hoa kim tuyến.
( An Tư công chúa con gái út của thái thượng hoàng Trần Thái tông, nên nàng phải gọi Quốc Tuấn bằng anh họ. Vì Trần Liễu- cha của Quốc Tuấn là anh ruột Trần Thái tông.)
Ngang lưng, công chúa thắt đai trắng, có đính những viên ngọc sáng nạm vàng. Công chúa đi hia cao tới đầu gối chứ không đi hài. Hia màu đen tuyền thêu chim phượng đỏ, hai mắt phượng đính hạt châu. Công chúa đội mũ có tua kim tuyến rủ xuống hai vai và trước ngực. Ngang lưng dắt một thanh trường kiếm. Hưng Đạo nhìn cô em họ mỉm cười, gật đầu: “Chào em! Chào công chúa!” - “Con bé tinh nghịch đến thế là cùng. Phận gái mà chỉ thích chơi trò cung kiếm như con trai” - Hưng Đạo thầm nghĩ vậy. Và ông hỏi thêm:
- Vậy chớ em ta đi đâu về đó?
An Tư công chúa cung kính đáp:
- Bẩm vương huynh, con ngựa này nghịch lắm, em phải theo nó đi dạo. Lại nhân bữa nay bên phủ Chiêu Quốc, vương huynh em gọi sang. Em nghe đâu bên Chiêu Quốc phủ đang dọn dẹp để đón sứ Sài Thung, chắc vương huynh đã biết?
- Ta cũng có nghe chuyện đó. Vậy chớ em đã giáp mặt Sài Thung lần nào chưa?
- Dạ chưa. Bữa trước em có nghe anh Chiêu Minh nói trong cung, thằng này nó hạch sách, láo xược lắm. Em định bụng, nếu gặp sẽ thì cho nó một đường kiếm vào cái miệng đại Hán của nó. Vừa nói, An Tư vừa vỗ tay vào đốc kiếm bên hông.
Hưng Đạo cười, vỗ vai công chúa, ông nói:
- Em ta dũng lược quá. Em cứ mài chí và mài kiếm cho sắc, nay mai ắt dùng đến. Còn như chém sứ giả thì đó là việc đại sự quốc gia, không phải việc của em, nghe chưa?
- Bẩm vâng. Nhưng em ghét nó quá đi. Vương huynh có ghé phủ Chiêu Quốc với em không?
Một thoáng lóe ở trong đầu, Quốc Tuấn nghĩ, nay mai ta về ấp An Sinh, tiện ghé thăm Chiêu Quốc vương rồi từ biệt luôn. Thế là hai anh em đều thả lỏng tay cương tiến vào phủ Chiêu Quốc.
Thấy Quốc Tuấn đến cùng công chúa An Tư, Trần ích Tắc vừa mừng vừa băn khoăn. Băn khoăn vì nhẽ ông chưa có chủ định mời Quốc Tuấn trong dịp này. Vả lại, nếu biết ông sắp tiếp Sài Thung, liệu Quốc Tuấn có phản bác gì không. Thật ra Trần ích Tắc và cả mấy anh em trong chi thứ nhà ông đều ngại Quốc Tuấn. Vì Quốc Tuấn ngoài tài thao lược, thì ông có cái uy át chủ. Kể cả Trần Thánh tôn, Trần Nhân tôn đều không có cái uy toát ra từ nhân cách con người như Quốc Tuấn. Hơn nữa, mấy cha con Quốc Tuấn nắm trong tay quá nửa số quân trong cả nước. Và ai cũng canh cánh lo vì đều biết rằng, trước khi chết, An Sinh vương Trần Liễu đã di chúc lại cho Quốc Tuấn điều gì.
Chính việc cha dặn bị vỡ lở, người trong nước ai cũng biết, khiến Quốc Tuấn rất khó xử. Và mối hiềm nghi giữa hai chi trưởng, thứ cứ đeo đuổi riết róng làm ông lắm phen đau đầu. Nhất là sau khi Vũ Thành vương Doãn, người em cùng cha khác mẹ với ông bỏ nước trốn sang Bắc quốc bị bắt lại hồi năm Bính thìn (1256). Ông suýt bị liên lụy, nếu như hồi ấy không có Thái tôn đứng ra che chắn trước sự đàn hặc của nhiều người. Số là Vương Doãn, con của Thuận Thiên sinh với cha ông. Khi Hiền từ hoàng hậu băng năm Mậu thân (1248), Vương Doãn cảm thấy mình hụt hẫng vì không có chỗ dựa. Lại tiếp vài năm sau, vào năm Tân hợi (1251), Yên Sinh vương tạ thế. Buồn bực vì thất sủng, Vương Doãn tính quẩn lo quanh thôi chứ chẳng có mưu mô phản trắc gì. Nhưng trò đời, thường là phù thịnh chứ đã mấy ai dám phù suy.
Chiêu Quốc vương chưa kịp mặc áo dài đội mũ, để làm lễ tương kiến vương huynh Trần Quốc Tuấn, ông cứ luôn miệng: “Xin vương huynh thứ lỗi,” Khi đã dẫn Hưng Đạo và công chúa An Tư vào nhà tân khách, lại sai nội thị pha trà, ông vội trở lại phòng riêng mặc áo đội khăn, rồi mới điềm đạm ngồi tiếp anh và em gái.
Hưng Đạo không phải không nhận ra sự tế vi trong giao tiếp của Trần ích Tắc. Song đó là nét riêng trong cá tính của từng người. Xưa nay việc giữ lễ để tỏ cái bụng của mình đối với người, cũng là sự tự kính trọng. Sau vài tuần trà, ông cùng công chúa được Ích Tắc dẫn đi xem khắp vương phủ, từ nhà cửa đến trang trí sắp xếp, bày biện. Cũng lại xem cả đội tinh binh đang luyện võ. Nhìn đám binh cường tráng tập tành, Hưng Đạo bằng lòng lắm. Ông thầm nhủ: “Thế nước đứng được, tựu trung là do ở những người lính này”. Cũng đã .có đôi ba lần ghé thăm phủ Chiêu Quốc, nhưng chưa lần nào Hưng Đạo được chủ nhân cho đi xem xét một cách thấu đáo như lần này. Càng xem, Hưng Đạo càng thấy từ việc xây cất dinh thự đến trồng tỉa cây cảnh, sắp đặt khuôn viên đều tuân theo một quy củ thẩm mỹ cao. Lại như việc thành, lũy và hào lạch được đào theo thế thủy bộ liên hoàn, quả là chủ nhân không những có con mắt sắc sảo của một kiến trúc gia bậc thầy, mà còn có cái đầu của một chiến lược gia biết nhìn xa thấy rộng. Cho nên phủ Chiêu Quốc không thuần nhất là một dinh thự, mà còn là một pháo đài công, thủ đều có thế cả.
Cũng qua việc kiến trúc và bài trí, Hưng Đạo đọc được nét chung trong con người Trần ích Tắc là tính phô trương, xa hoa, kênh kiệu, hiếu thắng. Nhưng phải thừa nhận, đây là một dinh phủ sang quý nhất Thăng Long.
Khi Chiêu Quốc vương dẫn Hưng Đạo trở lại nhà tân khách, ở đấy đã có sẵn một bầy vũ nữ, ca công, nhạc công. Đám nhạc công, ca công dâng hiến hai vương một khúc nhạc Champa. Trống paranưng bập bùng, rộn rã, âm vang sâu thẳm, như lời nhắn gửi từ vũ trụ mênh mang tới con người. Kèn saranai như một lời ảo não oán than, một tiên tri đồng vọng, báo trước số phận bi thảm của một dân tộc tài hoa và bất hạnh, có một không hai trên cõi thế này.
Ngồi cạnh Trần ích Tắc, nghe giai điệu Champa buồn thảm, Hưng Đạo vương cảm như mình rơi vào lạc lõng. Lòng ông còn ngổn ngang biết bao việc lớn chưa làm được. Và ông nghe như bước chân quân thù đang dần nhích tới biên cương. Đã toan đứng dậy cáo từ thì một bày vũ nữ vận theo lối Champa, trông như những thiên thần cánh trắng vừa từ thượng giới sà xuống trần gian. Họ múa một điệu múa dân gian Champa, khi kết thúc, hợp lại thành một bông sen trắng, hàm tiếu. Sự sắp xếp và bài trí khéo đến nỗi, người xem chỉ thấy toàn thể khối người kia là một bông sen trắng khổng lồ, và mỗi con người là một cánh trắng mỏng manh, toát lên vẻ đẹp và sự cao khiết.
Nghĩ tới công việc ở An Sinh ấp, Trần Hưng Đạo thấy nóng lòng. Mặc dù khi đi, mọi việc ở nhà, ông đã ủy thác cho Dã Tượng. Lại mới cách đây vài ngày, ông cho Yết Kiêu về trước. Ông cam thấy bao việc đang chờ ông: việc quân, việc lương như lửa đốt đầu. Vậy mà ngồi đây nghe hát, nghe đàn thánh thót, nỉ non sao mà vô duyên thế.
Như đọc được ý nghĩ sâu xa của Quốc Tuấn, Trần ích Tắc vẫy tay cho bầy ca-vũ-nhạc lui ra ngoài. Và sai tiểu đồng dâng rượu thạch xương bồ. Uống vội một chén, Trần Hưng Đạo cáo lui.
Khi tiễn người anh họ ra tới cổng ngoài, thân cầm cương ngựa trao cho Quốc Tuấn, Ích Tắc hỏi:
- Bẩm huynh trưởng, trước khi trở về An Sinh, huynh trưởng có điều chi dạy bảo?
Một tay đỡ lấy cương ngựa, một tay đặt lên bả vai Ích Tắc, với vẻ chân thành và cảm động, Quốc Tuấn nói:
- Chiêu Quốc vương, ta mong em để tâm nhiều hơn nữa vào việc mở rộng đám dân binh ở thái ấp. Cả đám tinh binh ở vương phủ, cũng nên lấy thêm vài đô nữa. Hốt-tất-liệt không để chúng ta yên đâu. Gấp lắm rồi. Thôi chào vương.
Nói xong, Hưng Đạo nhảy phắt lên mình ngựa. Chiêu Quốc vương chưa hết cảm động đã lại sủng sốt. Ông không ngờ, đã ngoài năm chục tuổi mà Quốc Tuấn vẫn còn khỏe đến vậy. Vương mới kịp nói một lời: “Kính huynh”, thì bóng con tía mật đã khuất ở nẻo đường quanh, chỉ còn vọng lại tiếng khua lộc cộc.

CHƯƠNG 7 :


Sài Thung đeo hổ phù ( Biểu tượng do nhà Nguyên đặt ra cho sứ thần của họ được miễn trừ các qui chế của nước chủ nhà, họ tự coi mình như một tên thống sứ) đi lại nghênh ngang khắp đất Thăng Long như đi vào chỗ không người. Y hạch sách, đánh đập, quát, thét các quan tiếp sứ. Y đánh đập những người hầu hạ phục dịch rất tàn nhẫn. Phố xá buôn bán, người qua kẻ lại tấp nập, y cứ phóng ngựa ào ào. Đã có mấy bà già nhà quê ra chợ mua sắm, bị ngựa của Sài Thung giẫm cho què cẳng. Từ quan đến dân khắp kinh thành, không một ai là không căm giận, không muốn moi gan móc mắt cả đám sứ giả bạo ngược.
Thăng Long đã từng tiếp nhận nhiều tên Đa-gu-ra-tri (Đạt lỗ-hoa-xích) người Mông Cổ, nhưng chưa có tên nào tàn bạo, vênh vang tự phụ như tên Hán gian mạt hạng này. Nhiều người toan hạ độc thủ hắn. Nhưng đích thân nhà vua, đã hạ chiếu cho quan đại an phủ sứ của kinh sư, phải phủ dụ cho dân chúng kinh kỳ hãy nén tâm chịu đựng, chớ có vì tức giận nhất thời mà làm hỏng đại cuộc. Kẻ kia hung hãn như vậy, là bởi đằng sau nó có cả một đạo quân lớn đang hừng hực khí thế giao tranh, chỉ cần có một cớ nhỏ là chúng ào qua biên ải.
Thật ra các hành vi của Sài Thung không phải chỉ là sự ỷ thế nước lớn, làm càn. Mà còn là hành vi đã được sắp đặt từ Yên Kinh. Cho nên triều đình quyết né tránh, để tên võ sĩ mù này đấm vào gió. Chưa giáng được đòn nào vào đối thủ, kể từ khi y đem mấy ngàn tên quân và bọn bù nhìn vào cõi ta tới nay, y càng lồng lộn. Thượng hoàng Trần Thánh tông đã nhắc bảo quan gia và cả triều đình rất kỹ, rằng võ sĩ thượng thừa là võ sĩ tránh đòn giỏi, chứ không phải loại võ biền cứ tới tấp ra đòn múa may quay cuồng như một con bọ gậy, vừa phí sức vừa gây cười cho đối phương.
Sang Đại Việt lần này, Sài Thung ngỡ mọi việc sẽ trôi chảy như Hốt-tất-liệt đã sắp đặt ở Yên Kinh. Và chính y cũng hăm hở muốn nắm giữ cái thực quyền của chức An Nam phó đô nguyên súy. Y cũng đã có kế sách để đẩy đi, hoặc trừ khử tên tướng Mông Cổ Bột-nhan-thiết-mộc-nhi ngu ngốc, đã được cử làm An Nam tuyên úy sứ đô nguyên súy. Y thừa biết, Giao Chỉ là đất giàu có, nhưng xa xôi. Địa bàn hiểm trở, khí hậu thì lam chướng, không hợp với người phương bắc. Cho nên, bàn tay của thiên tử từ Đại đô với tới là hụt hẫng. Nếu y được làm sứ đô nguyên súy, tức là làm vua ở một phương. Sự giàu có, thú hưởng nhàn ở đây có kém gì ở Yên Kinh. Các chúa Giao Chỉ từ xưa đến nay, dám chống lại các hoàng đế Trung Nguyên, cũng chỉ dựa vào trùng dương cách trở, rừng núi âm u, ma thiêng nước độc, nóng ẩm quanh năm. Nhiều lần cầm .đầu sứ đoàn nhà Nguyên qua lại giao thiệp với Thăng Long, Sài Thung đã ngắm kỹ địa thế xứ này.
Quả là “An Nam tú khí”. Đây là một vùng địa linh nhân kiệt. Khen cho quốc sư Vạn Hạnh, đã giúp Lý Công Uẩn dựng nghiệp tại đây. Quả là Vạn Hạnh có con mắt nhìn suốt tám cõi. Và Sài Thung còn nghiệm thấy một điều, dường như lòng trời tựa đám quân Nam, cho nên xưa, Cao Biền đã từng yểm đảo triệt linh, nhưng đất vẫn cứ kết phát. Vả ta xem tinh tượng, Sài Thung tự nhủ - anh hùng hào kiệt còn quy tụ tại đây nhiều lắm. Chính vì vậy Sài Thung ao ước, nếu như y là chủ đất này, y cũng xưng đế. Tiến lên phía bắc, có thể cự được Nguyên triều. Lui về phương nam, mở rộng đất đai bờ cõi không giới hạn. Nhưng Sài Thung đang đứng trước một tình thế khó xử. Y không biết ăn nói như thế nào với Hốt-tất- liệt, một con người tính nóng như lửa. Và trong cuộc đời, ông ta không chấp nhận bất cứ một kẻ thuộc hạ nào dám nói với ông ta: “Việc này việc nọ không làm được. Thành này thành kia không hạ được”. Ông ta chỉ chịu thua có trời. Ấy là lần đại đội binh thuyền của ông vượt biển đông, nhằm đất nước Phù tang trực chỉ, bị bão lốc nhấn chìm. Việc chinh đông tạm dừng. Song không vì thế đất ấy lại được phép nằm ngoài vòng cương tỏa của ông...
Rõ ràng là Sài Thung đang ở vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan. Y có thể đi bất cứ nơi nào trong đất Đại Việt và kinh thành Thăng Long, không ai động đến một sợi tóc của y. Nhưng y vẫn cứ như một kẻ mù lòa. Những tên tay sai, phái sang từ mấy chục năm nay đều bị triệt hạ. Những tên mới sang thì như một lũ ngớ ngẩn. Tin tức nội tình của triều Trần không thâu tóm được điều gì đáng giá. Quân lương của họ ra sao, bố trí binh lực thế nào đều không biết rõ. Các tướng súy của họ, nắm trong tay bao nhiêu binh sĩ cũng không biết. Họ sở trường về đánh bộ, đánh thủy thế nào cũng chưa tường. Nếu các việc này chưa nắm được rõ ràng, lúc đại quân kéo sang thì khai triển thế nào. Vì vậy, Sài Thung đang tính một nước cờ liều. Tức là phải tìm nội ứng trong số các quan lại, tướng súy triều Trần. Dạo trước, y đã ý tứ ướm gạn với viên tướng quốc thái úy Trần Quang Khải, nhưng việc không thành. Nay lại dấn thêm một bước nữa. Đó là một việc làm táo bạo. Được ăn cả, ngã cũng không mất gì, Sài Thung nghĩ vậy Chính vì thế y mới mạnh dạn gửi tới Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc một cánh thiếp và một chút quà mọn: bức tranh lụa. Y thừa biết, một con người phú quí, vinh hoa tột đỉnh, tài năng siêu quần như Trần ích Tắc, dễ gì mua chuộc và lung lạc được. Song y vẫn cứ muốn thử xem. Vì mỗi con người, dù là vĩ nhân, vẫn có điểm yếu. Cái chính là tìm cho ra điểm yếu ấy nó ẩn tàng ở đâu, như Gia Cát tiên sinh tìm thấy nơi sau gáy Ngụy Diên một cái vảy.
Nhận được thiếp phúc đáp của Chiêu Quốc vương, Sài Thung mừng lắm. Y gọi mấy tên thuộc hạ sẽ cho theo hầu, dặn dò cẩn thận. Lại sai soạn sửa lễ biếu, quà cáp rồi lên kiệu qua cửa Quảng Phúc đi ra phía tây kinh thành. Thăng Long đã vào hạ. Các chùa chiền đêm ngày rộn rã tiếng chuông, mõ, kinh kệ. Các chùa lớn như Diên Hựu, Sùng Khánh, Báo Ân đều mở hạ. Tăng ni nhiều chùa xung quanh vùng tấp nập về ngồi hạ. Khóa hạ năm nay đông vui hơn các năm trước nhiều.
Tháng năm, trời nóng như đổ lửa, ngồi trong kiệu lại có lọng che nắng hai bên, mà mồ hôi cứ chảy ròng ròng xuống cổ, xuống lưng áo. Tuy nóng nực, nhưng trong lòng Sài Thung rất vui. Thỉnh thoảng lại được một làn gió mát từ mặt hồ Dâm Đàm thổi hắt qua kiệu, Sài Thung cảm thấy khoan khoái. Kiệu Sài Thung đi được chừng non một dặm đường, thì gặp kiệu của Chiêu Quốc vương ra đón. Hai kiệu vừa gặp nhau, quân hầu đốt pháo, cử nhạc thật là long trọng. Cả Sài Thung và Trần ích Tắc đều xuống kiệu. Đôi bên thi lễ hỏi thăm sức khỏe của nhau, rồi Chiêu Quốc vương mời Sài thượng thư lên chiếc kiệu riêng, ông đem đi đón. Đó là một chiếc kiệu bốn đòn khiêng sơn then bóng đẹp, lại chạm phượng ở cả ba mặt và rèm the mát rượi. Kiệu vừa xuống ở đầu dinh, đã có một đội tinh binh nai nịt gọn gàng, kiếm tuốt trần, chào đón sứ giả. Lại có cả nhã nhạc nổi lên, nhịp với bước đi của chủ khách từ cổng tới nhà tiếp tân.
Sài Thung để ý thấy ngôi nhà được xây trên một doi đất cao ráo. Phải leo chín bậc thềm mới tới nền nhà. Qua hai lần cửa bức bàn tới lần cửa võng mới vào đại sảnh. Vừa đặt chân vào nhà, Sài Thung thấy mát lạnh ớn cả sống lưng, và một mùi hương sạ ùa ra thơm phức.
Sài Thung được mời ngồi vào một trong hai chiếc thái sư ỷ. Những người theo hầu Sài Thung ngồi vào những chiếc ghế hoặc đôn kê xen kẽ. Giữa đại sảnh đặt một chiếc đỉnh đồng hun đen nhánh, cao hơn đầu người, trên nóc đỉnh đúc hình một con sư tử, to gần bằng con sư tử thật, đang vờn quả cầu Hai bên đỉnh là một cặp lộc bình sứ cao ngang ngực người đứng, có hoa văn vẽ các loại cây cỏ, tiêu biểu cho bốn mùa trong năm. Đây là cặp lộc bình khá đẹp, do một nhà buôn người Ba-tư biếu ông, nhân dịp khánh thành nhà tân khách. Vì nó mới được sản xuất từ đầu đời nam Tống, tính ra độ hơn một trăm năm.
Phân ngôi chủ, khách xong, Sài Thung sai bày đồ biếu tặng cho chủ nhân. Ấy là một tập thơ Lý Bạch có bút tích của họ Lý, được đặt trong một chiếc hộp bằng vàng ròng. Và một bức tranh lụa của họa sư Triệu Mạnh Phủ. Cùng một số thuộc văn phòng tứ bảo như nghiên mực, mực thỏi, son, lụa Tô Châu để vẽ tranh. Bút viết, bút vẽ đủ cỡ, đủ kiểu. Quí hơn cả là một chiếc đỉnh bằng trân ngọc, có vân như vân khoai sọ, to bằng quả bưởi. Đây là vật báu của nước Tề từ thời Chiến quốc lưu lạc trong dân gian, có một nhà phú hào mua được đem biếu Sài Thung. Sài Thung hai tay nâng vật báu trao cho Trần ích Tắc. Y nói: “Quý vật tầm quý nhân. Ngài là dòng dõi vương giả và có đại phước, nên vật báu mới tìm về. Xin ngài lưu giữ, và chứng cho tấm lòng thành của kẻ quê hèn này”.
Trần ích Tắc xiết bao cảm động. Từ trước, Chiêu Quốc vương vẫn quen nghĩ rằng, người nước ngoài tới thăm ông là lẽ đương nhiên. Vì trong nước này, còn ai sang quý hơn ông, còn ai tài ba trác việt hơn ông? Họ tới thăm ông thường cốt để tỏ lòng sùng kính, và thỏa óc chiêm ngưỡng tò mò. Lần này quả thật ông không ngờ, một vị sứ giả tài ba, một quan thượng thư của thiên triều thật lòng quí mến, trao cho ông những báu vật, thế gian hy hữu. Về phần mình, ông cảm như những báu vật hiện ông đang được nắm giữ trong tay, là ngoài tầm mong ước của ông. Sợ rằng ông chưa đủ tài đức để thừa hưởng. Ví như một tập ba trăm bài thơ của thánh thơ họ Lý đây, lại có cả đôi dòng bút tích của ông nữa. Thật là một vật báu không thể liệt vào hạng thứ hai trong thế gian được. Rồi báu vật nước Tề...
Nhân có vài món đồ quí Sài Thung mới tặng, Chiêu Quốc vương mời khách cùng ghé thăm Thi-thư-họa viện của ông. Đó là một ngôi nhà cao ráo nằm sau nhà tân khách độ dăm chục bước chân. Hai nhà cách nhau bằng một vườn hoa và chậu cảnh. Bước qua khu vườn cây cảnh, nhìn ngắm những đôn, chậu và các loài cây, thế cây, Sài Thung ngầm đoán về tính tình và khát vọng của chủ nhân. Y gật gù tự nhủ: “Con người này quả là ghê gớm. Quả là thâm trầm”.
Thi-thư-họa viện là một ngôi nhà bảy gian thoáng rộng. Năm gian dùng để chứa sách. Cũng gọi là tàng thư. Sách được xếp ngay ngắn trong các kệ. Gáy sách đều nhất loạt quay ra ngoài, có đề tắt tên sách và ký hiệu các thư mục. Thông thường, sách ở đây được đóng bằng một loại bìa có phết sơn ta, đen hoặc đỏ. Với những bộ sách quí, còn được đóng gáy bằng đồng lá. Toàn bộ số sách trong Thi-thư-họa- viện này có độ trên chục ngàn bản. Ghé vào khu vực tàng thư, là để Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc, đặt cuốn thơ Lý Bạch mà viên chánh sứ nhà Nguyên vừa đưa tặng lên vị trí trang trọng nhất.
Trần ích Tắc khẽ đẩy vào tấm cửa ngách ngỏ then, chủ khách bước vào khu vực trưng bày tranh, tượng.
Sài Thung giật mình trước hết là bức chân dung thiếu nữ. Bức tranh to bằng một phần tư chiếc chiếu trải giường vẽ một thiếu nữ với vẻ mặt đài các, nhưng trong sáng như một thiên thần. Nàng vận toàn đồ trắng, tóc mây đen nhức buông phủ trên bờ vai. Một chiếc đai đỏ thêu kim tuyến đôi chim phượng đang múa. Mắt phượng đính ngọc sáng lấp lánh cùng với vẻ sáng từ đôi mắt thiếu nữ tỏa ra. Thiếu nữ ngồi vững vàng trên mình con ngựa sắc tía. Một tay thả lỏng dây cương, tay kia cầm ngọn roi xuôi chiều với đuôi ngựa. Ngang lưng nàng, trễ một thanh trường kiếm. Con ngựa đi nước kiệu. Từ thiếu nữ và cả con ngựa, toát lên một sức mạnh bí ẩn nội tâm, và một vẻ yên bình thần thánh. Gương mặt thiếu nữ vừa toát ra vẻ thông minh hóm hỉnh, như đang thầm chế giễu ai điều gì, lại vừa tinh nghịch, như là nàng bất chợt ra roi phi nước đại, khiến cho cả con vật lẫn ai chiêm ngưỡng nàng đều bất ngờ. Và đằng sau đám bụi cuốn lên từ vó ngựa, là chuỗi cười giòn khanh khách. Bức tranh như có một ma lực hút chặt cặp mắt Sài Thung vào đó, khiến y không còn nhìn thấy bức “Sơn thủy họa” của Tống Huy tông treo bên cạnh, mà y mới đưa tặng cho Trần ích Tắc được ít ngày.
( Tống Huy tông (1101-1126) với các niên hiệu: Kiến trung, Tĩnh quốc, Đại quan, Tuyên hóa. Bản thân ông là một ông vua nghệ thuật - một họa sĩ lớn. Từ khi lên ngôi vua, ông đã khai nguyên một thời đại mỹ thuật huy hoàng chưa từng thấy tại Trung Quốc và cả châu Á.)
Sau vài giây định thần, Sài Thung như có ý ngượng. Bèn khen: “Đẹp quá! Bức tranh đẹp quá! Thần họa”. Y lại nói tiếp trước khi ngồi vào ghế: “Chẳng hay đại nhân tìm ở đâu được bức họa tuyệt tác dường này”.
Chiêu Quốc vương sung sướng tới mức như ông có thể bay lên trời dược. Cái cảm giác siêu thoát tế vi màu nhiệm của Như Lai Phật tổ, chưa bao giờ ông cảm nhận một cách đầy đủ như lúc này. Khuôn mặt Trần ích Tắc vốn đã rực sáng như lúc nào cũng phát hào quang, bỗng ửng đỏ. Trên bàn đã dọn sẵn một be rượu Bồ đào của nước Thổ Phồn, do lão khách thương Hồi-hột biếu ông từ hơn chục năm trước. Lại cặp chén “phí thúy” làm bằng một thứ đá ngọc, luôn phát ra màu cầu vồng bảy sắc, được đặt trên chiếc đĩa sứ mầu da cam, nom như một chiếc đĩa lửa. Tự tay Trần ích Tắc rót rượu mời Sài Thung. Khách trân trọng nâng lấy chén rượu mà rằng:
- Chừng nào đại quan chưa cho bỉ nhân được biết nguồn gốc bức họa kia, thì kẻ quê hèn này chưa dám động đến rượu quí của ngài.
Lời nói vừa cao nhã, vừa tò mò khích lệ, khiến Chiêu Quốc vương có phần hơi lúng túng. Hết nhìn vào bức họa, lại nhìn vào khách, Trần ích Tắc nói:
- Bẩm đại nhân. Đại nhân cứ gạn hỏi làm cho kẻ quê mùa này thêm ngượng. Điều bất hạnh là bức họa kia lại do chính tay kẻ bất tài này vẽ. Và bỗng nhiên Chiêu Quốc vương nhớ lại cách đây mấy hôm, khi ông ra cổng đón Trần Hưng Đạo chợt nhìn thấy An Tư trong dáng điệu như thế này. Không hiểu sao, chỉ một thoáng thôi, mà hình ảnh em gái út của ông ăn sâu vào trí não đến kỳ lạ vậy. Đúng là lúc ấy, ông cũng có ý định vẽ một khuôn tranh. Cho nên khi tiễn Quốc Tuấn ra về, ông giữ An Tư lại và căng lụa lên, rồi hai anh em ra vườn vẽ. Ông vẽ tới hai ba bức, nhưng không một bức nào hài lòng. Bữa ấy, An Tư suýt khóc, bởi vì ông bắt công chúa phải diễn đi diễn lại mãi ở một tư thế. Lúc An Tư ra về lòng buồn rười rượi, vì cả ba bức, theo công chúa đều đẹp. Nhưng ông cứ khăng khăng rằng hỏng. Theo ông: “Nó không ánh lên được cái thần của em, như lúc ta vừa chợt trông thấy em bước vào sân cùng vương huynh”.
Mãi ba ngày sau, trong một giấc ngủ trưa chập chờn, Chiêu Quốc vương lại thấy lóe lên ở trong đầu cái thần thái của An Tư công chúa. Thế là ông nhổm dậy lấy bút lông, giá vẽ, mực tầu. Và ông vẽ một mạch theo trí nhớ bức chân dung này. Ông đã cho người gọi An Tư công chúa sang xem và định bụng, nếu em ông thích, ông sẽ tặng. “Tội nghiệp, hôm ấy con bé chỉ thích mấy cái tranh vô hồn”. Thế nhưng em ông, đã theo vương huynh ra vùng An Bang.
Lại đến lượt Sài Thung sửng sốt, chén rượu Bồ đào trên tay y run run, sánh ra ngoài mấy giọt. Giọng y xúc động:
- Núi Thái sơn trước mặt mà ta không được biết. Xin đại vương tha lỗi cho sự thất lễ của kẻ có mắt như đui này. Cạn chén mừng vương, mừng một họa sư - một thi bá đời nay. Nói rồi, Sài Thung nâng chén rượu lên nhấp. Y nuốt từng giọt, như để cho thứ rượu quí vô ngần kia thấm dần vào từng thớ thịt, thấm cả vào mọi nơi vi tế nhất của cảm giác con người. Một lát, y lại nói:
- Đọc thơ, biết được cái tâm của ngài. Ở Đại Đô, người ta ví ngài như Lý - Đỗ đời Đường. Xem cây cảnh, biết được cái chí của ngài. Đúng là “An Nam tú khí” mới sinh ra được bậc kỳ tài như vương. Tự ngắt lời, hết ngắm bức tranh vẽ lại nhìn Trần ích Tắc, Sài Thung tiếp - Người như ngài, ngay cả đến bên Đại Nguyên cũng không dễ gì có được.
Chủ khách cứ tâng bốc nhau hết lời.
Bức tranh quả có đẹp thật, người vẽ như lột tả được cả thần thái của nhân vật; nhưng có đẹp tới mức như Sài Thung suýt xoa khen ví, thì chính Trần ích Tắc cũng nghi ngờ.
Nhìn ngắm mãi hết xa lại đến gần. Lúc này Sài Thung mới chú ý đến dòng lạc khoản. Y giật mình:
- Hóa ra đại nhân mới hoàn thành bức họa này được ba hôm nay.
- Dạ bẩm đại quan, đúng như vậy.
- Dám xin đại nhân tha lỗi, ngài vẽ nó trong bao lâu?
- Dạ, tôi vẽ mười lăm năm, không hơn không kém.
Lại đến lượt Sài Thung kinh ngạc, y nhắc lại - Mười lăm năm trời để vẽ một bức tranh.
- Bẩm đại nhân, đấy là em gái út tôi - công chúa An Tư. Ở công chúa, tôi có một tình thương và một nỗi cảm thông đặc biệt. Em tôi vào đời không một tiếng khóc chào, dù người bảo mẫu có phát vào mông tới ba lần. Lớn lên, công chúa quả là một đứa trẻ có nghị lực. Thật tình tôi thương, có nhẽ vì sự lận đận trong cuộc đời mai hậu của An Tư. Vì tôi cảm mến em tôi từ lúc mới sinh. Tới nay An Tư đã tròn mười lăm tuổi, tôi mới bắt nổi cái thần của nó, thế chẳng là tôi làm việc suốt mười lăm năm sao?
Sài Thung gật gù. Một điều lạ với Chiêu Quốc vương, là vị sứ giả này cứ nhìn như muốn nuốt lấy bức tranh. Ông linh cảm như có sự chẳng lành, bèn đứng dậy nói:
- Đại quan quá bộ giáng gót tới tệ phủ. Tôi vốn không tự lượng sức, dám khua khoắng cả ngọn bút lông. Tưởng treo chơi vài ba bữa, rồi tặng công chúa, để làm chút quà lưu niệm. Ai dè lại làm nghịch mắt đại quan. Tôi thật đáng trách. Nhân đại quan mới cho bức tranh của một đại sư, mà tôi chỉ được nghe danh, chứ chưa được coi họa phẩm. Vừa nói, ông vừa đứng dậy cuộn bức chân dung An Tư lại, và mở bức “Sơn thủy họa” của Triệu Mạnh Phủ treo thế vào đó. Điều ấy không làm Sài Thung phật lòng. Trái lại, y còn xăm xăm đứng dậy, cùng ngắm nghía với Chiêu Quốc vương.
Bức tranh có một sắp xếp rất lạ. Lớp lớp từng dãy viễn sơn hùng vĩ, như cắm sâu vào lòng đất, và chọc thẳng lên trời. Lô xô những ngọn nhọn với không biết bao nhiêu là kẽ nứt nơi sườn đá. Tưởng như đó là những dòng thác đang gieo nước xuống các vực sâu, và ta nghe rõ cả tiếng gầm gào. Bảng lảng trên các chỏm cao một màu trắng mờ ảo như mây, như tuyết. Và cận cảnh là một ngã ba mênh mông nước. Hai nhánh sông chảy về phía núi xa, lấp lánh sau những cây cỏ phất phơ bên bờ nước, là bóng mấy chiếc lâu thuyền đang lãng đãng đi ra phía cửa sông. Và một bầy hạc sải cánh bay tạt ngang sườn núi.
Sau một phút trầm ngâm, Chiêu Quốc vương lên tiếng. Ông nói như nói với chính mình:
- Mọi vật đều như hiện ra trong mộng vậy. Vừa huyền bí vừa quyến rũ xiết bao. Tôi thích những khoảng không bao la, nơi không có ngọn bút lông nào đặt tới. Dường như đó là những biểu hiện tư tưởng trác việt của họa sư về triết lý, nhân sinh và vũ trụ.
Sài Thung gật gù tán thưởng:
- Tôi chưa từng thấy một người nào có óc thẩm mỹ cao như đại nhân. Quả là đại nhân có một nhãn quan thấu thị. Triệu Mạnh Phủ hiệu Tử Ngang của chúng tôi, hiện nay được liệt vào loại đệ nhất danh họa. Dạ, Triệu họa sư còn trẻ lắm. Ông sinh năm Giáp dần, năm thứ hai đời Tống Bảo hựu (1254). Năm nay mới tuổi hai tám. ông là con một gia đình quí tộc dòng dõi Triệu Khuông Dẫn.
- Đúng là cha nào con nấy? Chiêu Quốc vương nói, mắt ông vẫn dán vào khuôn tranh. Ông lại hỏi:
- Tôi nghe nói Triệu tiên sinh còn có sở trường vẽ ngựa?
- Thật đáng tiếc là đại nhân chưa được xem bức tranh tả đàn ngựa quá giang của họ Triệu. Đúng là tiên sinh đã vẽ theo bút pháp của Hàn Cán, Lý Long Miên. Song tranh của tiên sinh lại làm lu mờ hết tiếng tăm của các bậc tiền bối.
- Thế còn bức kia, thưa đại quan - Chiêu Quốc vương hỏi Và ông chỉ vào bức tranh sơn thủy họa của Tống Huy tông.
Sài Thung mỉm cười đáp:
- Đó là một hoàng đế nghệ thuật của nhà Tống. Bản thân ông ta là một họa sĩ bậc thầy. Chính ông đã khai sinh cho thời đại mỹ thuật sáng lạn chưa từng thấy trong lịch sử văn hóa Trung Hoa. Suốt hai mươi lăm năm trị vì, ông đã đưa nền hội họa Trung Quốc lên đỉnh cao chót vót.
- Bức sơn thủy họa này - Chiêu Quốc vương chỉ vào bức tranh của Tống Huy tông, nói - chứa đựng một ý tứ thâm trầm và một khát vọng bao la về cái đẹp. Chứng tỏ, ông là một nhà nghệ thuật hơn là một kẻ trị vì.
- Quả có như nhận định của đại nhân, Sài Thung đáp. Và y chợt nhận ra cuộc thăm viếng đã sa đà vào đàm đạo về hội họa. Y thầm phục sự am hiểu rộng rãi và sâu sắc về nhiều lĩnh vực văn hóa của Chiêu Quốc vương. Quả là y có ngại nói ra những điều cần phải nói. Nhưng y lại tự nhủ - ta là người của một đại quốc, ta là đại nhân. Nhẽ nào hạ mình đi kết thân và tỏ lòng thán phục đối với con cái của một Man vương. Nghĩ vậy, y tự thấy mình là một con người khác: quyền thế hơn, oai phong hơn. Sài Thung bèn lái câu chuyện sang hướng khác.
Trở về chỗ ngồi, Sài Thung tự tay rót rượu Bồ đào vào chén ngọc cho Chiêu Quốc vương. Y cũng tự rót cho mình. Rồi tay nâng chén rượu, miệng nói :
- Quả là ở An Nam ta chưa gặp một người nào để ta trọng nể như ông. Ông mới xứng đáng làm quốc vương xứ này. Giả vờ mượn rượu, Sài Thung đưa đẩy một ý thăm dò hiểm độc. Y nhìn thẳng vào mặt Trần ích Tắc, xem ông có tỏ lộ nét gì khả dĩ đáp ứng điều y đang tìm kiếm.
Trần ích Tắc bỗng tối sầm mặt lại. Ông đóng nút bình rượu và nói:
- Tôi thật có lỗi đã mời đại quan quá chén, để đại quan xúc phạm đến quốc vương tôi.
Sài Thung vờ như không biết gì hơn. Y nói thêm:
- Ồ, quốc vương là cháu ông chứ ai, tôi nói đây là nói đến tài năng, đức độ của ông xứng đáng ở ngôi quân trưởng, chớ tôi có chê gì quốc vương An Nam.
Trần ích Tắc bỗng sẵng giọng:
- Nếu ông còn tiếp tục nói về quốc vương tôi với các lời lẽ bất kính, thời tôi xin phép được nói rằng, cuộc tiếp kiến ông tới đây là chấm dứt.
Sài Thung hiểu sự việc không thể đi xa hơn được nữa. Y cười sằng sặc:
- Tôi vẫn nghĩ đại nhân rộng lượng với người say. Lỗi tại cái rượu Bồ đào của đại nhân ngon quá.
Trần ích Tắc cũng hiểu tình thế không thể làm quá được với Sài Thung.
Trở lại chuyện trò vui vẻ, Sài Thung nói:
- Tôi vẫn có lòng mến đại nhân. Do đó, mến cả đất Giao Chỉ này. Nhưng tình thế không thể nói trước được. Tôi sợ thiên tử tôi lần này sẽ không dung thứ, nếu bên An Nam, quân trưởng không chịu vào chầu. Lại không cho con sang làm con tin, và nộp lương, giúp quân cho đại binh thiên triều đánh Chiêm Thành.
Trần ích Tắc tự thấy đây không phải là cuộc thương thuyết, và ông cũng không được triều đình giao cho thương nghị với sứ giả về việc này. Nhưng ông thấy, không nên bỏ qua cơ hội. Ông nói:
- Nếu thiên tử có thương nước chúng tôi, là trước hết, đại quan có thương nước chúng tôi không đã. Nếu đại quan thương, chỉ tâu cho một lời, ắt thiên tử sẽ thi ân cho cái nước phên dậu nghèo yếu xa xôi này.
Sài Thung cười hì hì:
- Hay thật, ở nước các ông, từ vua, quan, cho đến dân thường đều nói giống nhau.
- Ấy bởi bên thượng quốc từ xưa đến nay thiên tử cũng có nói với nước chúng tôi có mỗi một điều. Khi nào thiên tử nói khác, chúng tôi mới dám nói khác chứ.
Sài Thung không những không trách về lối ăn nói phạm thượng của Chiêu Quốc vương, mà y còn cảm thấy nét khôi hài nhưng rất mẫn tuệ trong lời đáp của Trần ích Tắc. Y nghĩ: “Quả là bên Đại Đô người ta chưa nói điều gì khác ngoài cái việc bức bách An Nam lệ thuộc. Thế thì sự trả lời của An Nam là xin cho không lệ thuộc, như miễn thuế, hoặc xin trì hoãn các việc một cách hết sức khôn ngoan”. Nhìn thẳng vào mắt Chiêu Quốc vương, Sài Thung nói:
- Tôi vẫn có lòng ngưỡng mộ đại nhân. Sợ sau này hai nước có chuyện can qua, trong đám loạn quân không biết thế nào mà nói trước được, đại nhân nên giữ cái tín bài này, để dễ tìm nhau trong họa biến.- Y vừa nói vừa móc túi lấy ra một vật nhỏ gói bọc kỹ càng trao cho Chiêu Quốc vương, và dặn thêm: - Thiên tử vẫn có ý mến mộ ông lắm đấy.
Trần ích Tắc đỡ lấy với vẻ xúc động.
Sài Thung lại nói:
- Xin đại nhân gia ân cho tôi một việc.
Trần ích Tắc sửng sốt nhìn Sài Thung.
Y nói:
- Đại nhân cho tôi xin bức họa chân dung công chúa An Tư. Đó là bức chân dung đẹp nhất mà tôi được biết. Tôi chỉ muốn đem bức tranh này về Đại đô Yên Kinh, để bắt mọi người phải thay đổi quan niệm rằng: “An Nam đã có danh họa”.
- Một khi đại quan đã muốn vậy, tôi còn biết nói thế nào. Ông trao bức tranh vào tay Sài Thung và nói thêm - Chỉ sợ nó không xứng với lòng mong muốn của đại quan. Và Trần ích Tắc lo cho số phận em gái ông- điều mà từ lâu ông vẫn quan hoài về An Tư công chúa.

CHƯƠNG 8 :

Tự nhiên thấy nóng ruột, Trần Hưng Đạo đã cho Yết Kiêu về trước từ ba hôm. Nhưng cái buổi ra giảng binh pháp cho các tướng ở điện Giảng Võ, lúc trở về gặp An Tư công chúa, rồi hai anh em cùng ghé thăm phủ Chiêu Quốc vương tự nhiên ông lại thấy nóng nóng ở trong bụng. Thế là ông vội vã trở lại vương phủ, và ngay chiều hôm ấy ông xuôi về Vạn Kiếp. Thuận nước thuận gió, chiều hôm sau ông đã về tới thái ấp An Sinh.
Các gia tướng Yết Kiêu, Dã Tượng ra tận bến thuyền đón chủ tướng. Các vị môn khách như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Phạm Lãm, Trần Thì Kiến, Trình Giũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực... là các danh sĩ, danh tướng đương thời đã về qui tụ dưới trướng Trần Hưng Đạo cũng chuẩn bị xong xuôi công việc, chỉ chờ ông về, là đệ trình ông xem xét.
Nghe các gia tướng gia thần và môn khách tâu bày xong. Trần Hưng Đạo thấy không có gì sai khác như ông đã sắp đặt lúc ra đi. Vậy thì ông nóng ruột là bởi cái gì. Ông bèn hỏi:
- Ngoài những việc các ngươi đã kể, trong thái ấp của ta có còn xảy ra chuyện gì nữa không?
Dã Tượng bèn tâu:
- Bẩm đức ông, đức ông hoàng Sáu ( Trần Nhật Duật- con trai thứ sáu của Trần Thái tôn) có gửi từ Đà Giang về biếu phủ Hưng Đạo một đàn năm con voi tơ, để sung vào đội tượng binh của ta. Còn đức ông hoàng thì hẹn dăm bữa nửa tháng sẽ tới thăm ấp An Sinh.
Hưng Đạo “à” lên một tiếng và nói:
- Đúng. Đúng rồi, thế là ứng với điềm ta nóng bụng. Hỏi han sức khỏe và công việc của từng người xong, Hưng Đạo nói:
- Các ông hãy về nghỉ, để ta đi thăm quân sĩ một lát, rồi đêm nay, xin các ông lại tụ hội tại đây để nghe ta nói lại các khoản mà sứ thần nhà Nguyên đòi hỏi, cùng một số công việc khác. Cấp bách lắm rồi, không gấp lên là không kịp.
Thoạt tiên Hưng Đạo đi xem các đám dân binh luyện tập: chỗ kéo co, chỗ vật, chỗ chạy, chỗ bơi, lặn. Lại có đám tập leo trèo cây cao, cây to, bám chuyền trên các cành cây khẳng khiu, chuyền từ cây này sang cây khác. Rồi vác nặng, leo núi. Buộc túi cát vào hai bắp chân, tập nhảy cao. Đến đâu ông cũng úy lạo quân sĩ. Ông đi rồi, họ tập luyện hăng hơn. Hết đám lính bộ binh, Hưng Đạo lại sang xem đội kỵ binh tập cưỡi ngựa, bắn cung vượt qua hào rộng, đầm lầy, núi cao. Qua đội kỵ binh của Phạm Ngũ Lão, ông ghé trại thủy binh của Yết Kiêu. Ở đây quân chia làm nhiều tốp. Tốp tập đánh tay vo cướp thuyền giặc đang lao nhanh. Tốp tập lướt thuyền chặn giặc. Tốp tập đánh sáp lá cà. Tốp lại tập bơi vo, lặn sâu, lặn xa... Cuối cùng, Hưng Đạo vòng về đội tượng binh của Dã Tượng. Ở đây cũng chia làm nhiều tốp, tốp luyện voi non mới nhập trại của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật vừa trao tặng. Tốp rèn cho voi xông xáo vào các mục tiêu, các địa hình trắc trở như gai góc, cây leo, bụi cây, cây to cản đường, núi cao, nước sâu, lửa cháy... Cái giỏi của Dã Tượng là tạo được địa hình tập luyện như thật. Hưng Đạo thích thú đứng nhìn một đội ba thớt voi đi vào một nhánh đường hẹp, giữa có một cây to chắn lối. Thế là một con voi lùi xuống, hai con tiến lên lấy thân đẩy qua đẩy lại làm cho cây lung lay. Xong chúng quay đầu lại, dùng vòi nhổ bổng cây lên, ném qua vệ đường. Rồi ba con voi vừa gầm rống lên, vừa chạy ào ào như một trận bão lớn tràn qua, làm rung chuyển cả núi rừng. Lại một tốp ba thớt voi khác, đang đứng trên đường tiến quân, thì gặp một hồ nước rộng và sâu. Bờ hồ bên kia là quân giặc, đang nhất loạt bắn tên sang như mưa. Lũ voi gầm lên dữ dội, rồi ào xuống hồ nước bơi nhanh. Tới gần bờ, chúng dùng voi phun nước tới tấp, làm cho cánh quân cung nỏ ngã nháo nhào như chuồn chuồn gặp bão. Lại một tốp khác, do chính Dã Tượng điều hành. Tốp này đang dạy cho voi quen dạn với lửa. Vì voi vốn nhát lửa. Phàm thành trì bốc cháy, hoặc quân địch dùng hỏa công, voi thường bỏ chạy.
Thấy Dã Tượng tận tụy với đội tượng binh và sáng chế ra nhiều cách đánh, Quốc Tuấn cảm động xuống ngựa, ông bước tới vỗ vào vai Dã Tượng nói:
- Liệu có thành tựu không con? Ta có lời khen ngợi đội tượng binh.
Dã Tượng với gương mặt biết ơn đối với sự săn sóc của chủ tướng, bèn đáp:
- Bẩm đức ông, chắc là được. Mấy con voi này hiện đã quen với màu lửa, nay cho chúng làm quen dần với lửa.
Hưng Đạo thấy cạnh đống lửa cháy lom rom, ngọn lửa bập bùng khi nhỏ khi to, lá mía xếp rải rác xung quanh đống lửa. Mấy con voi vừa đủng đỉnh nhai mía, vừa lơ đãng nhìn ngọn lửa.
Lại nói, Dã Tượng xuất thân nghề rèn. Tính người ôn thuận, trung hậu, sáng dạ và hay tìm tòi chế tác. Thêm có biệt tài tôi, rèn sắt, nên các đồ binh khí qua tay Dã Tượng đúc, rèn thường chém gỗ đá ngọt như chém chuối. Là một gia nô tin cậy, được Hưng Đạo giao hẳn cho việc rèn binh khí trong quân. Kíp đến khi Quốc công lập đội tượng binh, đã giao cho nhiều quản tượng luyện voi chiến, chúng đều không theo. Dã Tượng xin làm thử, và làm được. Quốc công mừng lắm, liền cho Dã Tượng coi sóc đội tượng binh.
Trên đường về, ông ghé thăm mấy ấp trại của đám nông phu. Ông ngó vào tận trong buồng, thấy nhà nào cũng đầy một lẫm thóc. Hỏi ra, mấy năm nay dân đã đủ ăn, không còn lo đói nữa. Hình ảnh các quân sĩ đang ham mải luyện rèn và dân tình no đủ, khiến ông thêm vững dạ. Nếu như mai đây quân Thát-đát có tràn vào xâm lấn cõi bờ, chắc là dân sẽ sát cánh cùng ông đứng lên gìn giữ mảnh non sông gấm vóc này.
Tối đến, tại nhà đại bái đèn nến thắp sáng choang, các gia thần, gia tướng và môn khách đã tề tựu, Trần Hưng Đạo mới từ ngoài nhà thư trai bước vào. Ông vận chiếc áo thụng tía, đầu quấn khăn vành dây bằng lượt màu xanh ngọc. Tóc ông lơ phơ bạc. Ông có bộ râu năm chòm dài, rậm như râu Quan Công, và khuôn mặt vuông chữ điền. Mắt to sáng. Đôi tròng con ngươi sóng sánh như phát hào quang. Cặp lông mày lưỡi mác rậm hơi xếch, mỗi bên đều có dăm sợi dài vuốt cong lên. Toàn bộ con người ông, gương mặt ông, và dáng đi đứng của ông toát lên một phong thái uy nghi, đường bệ. Ông có giọng nói ấm áp, cứng cỏi thanh âm trong trẻo như tiếng chuông ngân, khiến như rót vào tai người nghe, không phải vì sự mê hoặc của ngôn từ, mà do uy lực của âm thanh quyến rũ. Chào hỏi mọi người, phân ngôi chủ khách xong, ông nói:
- Ta không sợ gì cha con Hốt-tất-liệt, nhưng không biết cảnh thanh bình mà chúng ta đang an hưởng đây, còn kéo dài được bao lâu nữa? Nếu các ông ở Thăng Long, lại phải tiếp sứ giặc như ta, thời các ông hoặc là phải chém đầu Sài Thung, hoặc là phải sôi máu, vỡ tim mà chết. Sài Thung và tay chân của y đi lại nghênh ngang, từ nhà công sứ đến các nơi thờ phụng tôn nghiêm, hoặc nơi hội hè chợ búa, không còn biết kiêng nể gì. Nơi đông đúc, thì chúng phóng ngựa chạy vào. Nơi thưa vắng mà gặp ai thì roi da chúng đánh đến vỡ đầu sứt mặt. Nói năng chửi mắng thô bỉ. Từ nơi cung điện tới miếu đường, chúng đều không giữ lễ. Ngay ta đây, - vừa nói Trần Hưng Đạo vừa bỏ khăn ra cho mọi người xem, dấu máu còn đọng két trên đầu, - do đứa quân hầu Sài Thung lấy mũi tên nhọn đâm vào - Trần Hưng Đạo ghìm nén một tiếng thở dài trong lồng ngực. Ông dừng lời nhìn khắp lượt, các tướng văn, tướng võ, và gia thần. Ông đọc được trên gương mặt họ, lòng căm uất lũ giặc cậy thế ỷ quyền nước lớn, bắt nạt lân bang. Ông biết, chỉ khi nào ông truyền được lòng căm giận lũ chó kia, cho các chư tướng như lòng ông căm giận chúng, và các chư tướng lại truyền cho quân sĩ cũng được như vậy; tới khi nào cả vua quan, tướng lĩnh, sĩ tốt và thứ dân trong cả nước đều một lòng phanh thây xé xác quân giặc, thì khi ấy ông mới dám nghĩ đến chuyện ra quân và thủ thắng cha con Hốt-tất-liệt.
Biết các thủ hạ đang nóng lòng chờ ông nói tiếp, Trần Hưng Đạo lại chụp chiếc khăn lên đầu, và thong dong nói:
- Con sói già Hốt-tất-liệt nằm trong hang ổ ở Yên Kinh đòi nước ta cái gì, xin chư vị hãy nghe đây - Hưng Đạo cúi xuống mở nắp chiếc tráp nhỏ, lấy ra một cuốn sách, và đọc. Xong ông nói - Trước sau thì y vẫn đòi ta có sáu việc chính. Triều đình đã cân nhắc kỹ lưỡng. Nay chỉ cần nhận một trong sáu việc là nước không còn chủ quyền quốc gia nữa. Vả lại quân kia như loài hổ đói, ta nhận một, chúng đòi hai, đòi mười.
- Quân trưởng vào chầu ư? - Không được.
- Phải chịu quân dịch?
- Phải nộp tô thuế?
Đó là bổn phận của các quận, huyện trong cả nước, phải đóng góp cho triều đình. Lũ chó này ở xa ta hàng vạn dặm, dám hỗn xược hư trương thanh thế, định biến ta thành nô lệ cho chúng chỉ bằng mấy lời dọa dẫm chăng?
Các ông có biết, Hốt-tất-liệt còn dọa vua ta điều gì không? Y nói rằng: “ Nếu cố ý kháng cự mệnh trẫm, thì ngươi cứ bồi đắp thành trì, sắm sửa giáp binh, sẵn sàng mà đợi...”.
Ngừng lời một lát, Quốc Tuấn nhìn khắp gương mặt các thuộc hạ của ông. Ông hiểu rằng, họ đã ghét cái mà ông ghét. Ông đặt cho họ một câu hỏi:
- Vậy chớ xin hỏi các ông, có phải lần này Hốt-tất-liệt vẫn dọa ta chứ?
Không khí im phăng phắc. Chỉ nghe thấy tiếng bấc đèn nổ lép bép, và cả tiếng muỗi vo ve trong xó tối.
Một lát sau, Phạm Ngũ Lão lên tiếng:
- Bẩm đức ông, theo ngu ý của tiểu tướng, lần này Hốt-tất- liệt nói thật, chứ không chỉ là việc đe suông.
- Căn cứ vào đâu tướng quân cho những lời dọa dẫm kia là thật?
- Bẩm đức ông, đó là do thái độ hống hách, trịch thượng, vô lễ của sứ giả. Y tìm đủ mọi cách khiêu khích, để sao cho ta nổi đóa lên là bọn chúng có cớ cất quân sang. Thái độ của Sài Thung như vậy, có nghĩa là ở Yên Kinh người ta đã sẵn sàng. Xin đức ông, với uy đức của mình, làm thế nào cho triều đình gắng nín nhịn. Và phải lấy lòng Sài Thung; dù việc đó có phải nhẫn nhục, tốn kém, vẫn còn hơn là xảy ra binh hỏa, trong khi lực ta chưa vững.
Phạm Ngũ Lão vừa dứt lời, Nguyễn Thế Trực đã lên tiếng:
- Bẩm đức ông, Phạm tướng quân nói rất đúng. Việc chiến hay hòa lúc này là tối quan trọng. Hòa với giặc có nghĩa là, hàng chúng nó. Là dâng nước cho quân Thát-đát một cách hèn nhát. Mà chiến trong lúc thế dân sức quân chưa sẵn sàng, tức là đánh một nước cờ liều, đem trứng chọi với đá, mất nước như chơi. Bởi thế, việc chọn lựa đường đi nước bước của ta, là không có quyền được sai. Sai là mất hết. Là không còn gì để làm lại nữa.
Trước lời nói chân thực của hai vị tướng văn, tướng võ, Trần Hưng Đạo vô cùng xúc động. Không những ông cảm thấy yên tâm, mà còn sung sướng nữa. Bởi kẻ sĩ đã nghĩ suy, điều mà cả quốc dân cùng đau khổ. Ông yên tâm, bởi không những họ chỉ biết quan hoài đến tình thế, mà còn biết cách thoát ra khỏi tình thế. Và ông vui sướng, cũng bởi họ đã chia sẻ cùng ông, nỗi lo cho cả dân tộc. Và vì thế họ rất xứng đáng là môn khách của ông.
Lấy làm mãn nguyện, Trần Hưng Đạo đưa tay lên vuốt vuốt chòm râu tới ba lần. Thong thả ông lại nói:
- Thế giặc lần này không sơ sài như năm Đinh tỵ (1257). Chúng đã bình định xong Trung Nguyên. Cái đất nước mênh mông mà của cải và con người đều nhiều như cát sa mạc ấy, Hốt-tất-liệt có thể lấy cả trăm vạn quân, xéo nát bờ cõi giang san của ta không phải là chuyện chúng không làm được. Nhưng không phải việc gì chúng cũng làm được. Không phải việc gì chúng muốn là làm được. Như việc tiến đánh Nhật Bản. Đã mấy lần đi mà không đến. Thế mà bên ta còn nhiều điều thật đáng lo ngại. Như bữa trước ta đã bàn với các ông, xem có kế gì phá được cái oai hão, rằng quân Nguyên là một đội quân bất khả chiến bại. Rằng dưới gầm trời này, quân Nguyên là vô địch. Nỗi ám ảnh ấy không chỉ có ở những người nhát sợ trong dân chúng, mà nó còn có ở trong giới sĩ phu, tướng lĩnh và cả một số đại thần.
Lại nữa, điều này ta cho là trọng yếu nhất trong sự nghiệp hưng binh. Tức là phải làm sao cho dân chúng chóng giàu. Chí ít là nhà nhà dư dật, thì ai ai cũng sẽ chăm lo đến việc mở mang kinh tế. Nếu dân chúng giàu, thì nước mới có cơ mạnh được. Theo đó, nhà nhà lại yên tâm cho chồng con sung vào quân thứ, đi luyện tập dài ngày. Như trước đây là thời bình, mỗi năm hai lần sau mùa vụ, tới hạn kỳ đám nông phu đem tiền gạo của nhà đi ở lính, để tập luyện hoặc làm các việc trong quân. Hết hạn lại về làm ruộng. Nay xét tình thế gấp gáp. Việc luyện quân đòi hỏi phải ráo riết, và dài ngày. Ngay khi họ đã thạo các việc trong quân rồi, lại phải dạy cho họ về binh pháp nữa. Bởi ta xem người lính, khác với quân cờ. Nếu họ am hiểu, nhiều khi vắng tướng lĩnh, tự họ khắc xoay chuyển được tình thế.
Ta vẫn nói, nếu các ông có kế sách làm được các điều ta mong mỏi, thì dù có phải chia nửa thái ấp của ta cho dân chúng, và giải tỏa hết đám nông nô, ta cũng sẵn sàng. Việc này không chỉ riêng ta làm. Mà các vương hầu khác cũng sẽ phải làm. Vì mất một phần gia sản còn hơn là mất nước. Một khi nước đã mất thì thân cũng chẳng còn, nói gì đến thái ấp và nô tì. Nào, bây giờ đến lượt ta nghe các ông. Các ông cứ mạnh dạn, dù điều các ông nói có hại cho ta, nhưng lợi cho nước thì các ông chớ có nề hà.
Lời nói của Trần Hưng Đạo như dứt từ tủy xương, từ óc não ra, khiến các quan thuộc hạ đều cảm động. Đáp lời kêu gọi của ông, ít lâu nay các tướng đều lo đến việc tìm kế sách đánh giặc, giữ nước.
Tiếp lời ông, Trương Hán Siêu liền nói:
- Đáp cái ơn tri ngộ của đức ông, chúng thần đã bàn tới nát nước. Điều mà đức ông hỏi, làm thế nào cho trên từ đấng quân trưởng, tới các vương hầu, dưới đến các sĩ thứ và con dân trong nước, ai ai cũng căm ghét quân Nguyên tàn bạo, và tin ở sức mình dám đánh, quyết đánh. Việc ấy, không gì hơn là phải phát hịch, bố cáo trong cả nước. Nói rõ cho mọi người biết sức địch, thế ta. Nhất là đường lợi hại của lẽ tồn vong, sự liêm sỉ của mỗi con người, và trách phận của họ trong lúc quốc gia hữu sự. Khi đã khơi được lòng tự tôn và tự trọng dân tộc trong mỗi con người, thì không còn kẻ thù nào là vô địch đối với họ nữa. Việc này xin đức ông, nếu thấy là việc cần kíp, nên phải làm ngay. Vì nếu mọi người còn chưa tin vào sức mình, thì chưa thể bắt đầu khởi sự được.
Trần Hưng Đạo gật đầu tán thưởng. Ông ghi lời nói của Trương Hán Siêu vào trong một cuốn sổ. Phía ngoài bìa cuốn sổ đó có hai chữ lớn: “MƯU THUẬT”.
Sau Trương Hán Siêu, Trình Giũ nói:
- Nhờ chính sách thân dân, từ đời tiên đế, đã lo cho dân được đủ ăn, đủ mặc. Nước thì đủ binh. Cho nên cuộc xâm lấn của Thát-đát năm Đinh tị đã bị đánh tan. Người dân trong nước, ai cũng tin triều đình. Cho tới ngày nay, mọi sự đều tinh tiến cả. Tuy nhiên, như đức ông nói: lực của kẻ thù lớn hơn xưa gấp bội. Cho nên, muốn thắng chúng, ta cũng phải có một nội lực khang cường hơn. Tức là quân nhiều hơn, lương thảo, khí giới nhiều hơn. Tất cả những điều ấy, đều phải trông cậy vào dân. Nếu dân cùng lo với nỗi lo của quan quân, hẳn là ta không còn sợ kẻ kia cậy mạnh nữa. Nhưng làm thế nào để dân cùng lo mối lo của quan quân?
Trình Giũ kết thúc thâm ý của mình bằng một câu hỏi lửng.
Phạm Lãm tiếp luôn:
- Trình tiên sinh đặt câu hỏi, nhưng tiên sinh lại bỏ lửng. Thần dám chắc mọi điều giải tỏa nỗi quan hoài của đức ông, lại đều nằm trong câu hỏi đó. Chủ kiến của thần là: con người sinh ra có hai điều mong muốn nhất. Một là tự mình xoay xỏa lấy cuộc đời mình, không phải lệ thuộc ai, không phải sống kiếp tôi đòi. Hai là, phải có cái ăn cái mặc. Mà muốn có cái ăn cái mặc, trước hết phải có ruộng đất. Thâu tóm lại sở nguyện của con người từ thái cổ đến nay, vẫn chỉ là tự do và tư hữu. Đại Việt ta từ khởi thủy đến nhà Lý, ruộng đất vẫn là của nhà nước, gọi là quốc điền. Bản triều ta vẫn noi theo các triều trước. Duy tới năm Giáp dần (1254) Nguyên phong thứ tư đời tiên đế, mới ban hành chính sách bán ruộng công. Mỗi một diện là 5 quan. Từ đấy, nhân dân mới có ruộng tư. Từ khi có tư điền, lúa ruộng tốt hẳn lên. Mùa vụ thóc lúa nhiều hơn. Dân chúng ai cũng mong muốn có mảnh ruộng, và được làm ăn trên mảnh đất của mình. Nhưng không phải ai cũng có đủ tiền mua ruộng. Để trong dân, ai cũng có chút ít ruộng đất, theo thiển ý của tiểu nhân, nhà nước nên xẻn bớt quốc điền, để cấp cho những người không có ruộng. Lại cho dân tự khẩn hoang đất rừng, đất bãi bồi ven sông, và hạn chế phần chiếm hữu. Quá hạn giới, phải nộp cho quốc điền phần nửa, Nơi nào không có đất đai hoang hóa thì xẻn bớt một phần đất thái ấp của các vương hầu, bán cho dân. Ai không có đủ tiền được trả dần trong một hạn định. Lại nữa, số nông nô, nô tì các nhà quan hiện chiếm hữu quá nhiều. Nếu như các dân ấy được giải tỏa mà lại có thêm ruộng đất nữa, thì thần đoán chắc, chỉ trong vòng vài ba năm, nước ta không muốn sung túc dư thừa (lương thực và các sản vật chăn nuôi như trâu bò gà lợn) cũng không được. Và một khi người dân đã được hữu sản, mà trong nước có họa xâm lăng, đức ông và ngay cả nhà vua, có muốn cản không cho họ nhập quân đánh giặc giữ nhà, giữ nước cũng không được. Bởi vì sự gắn bó của dân với nước là ở chỗ phần của họ có gì trong đó. Còn nếu như, bẩm đức ông - Phạm Lãm chợt giật mình, vì ông ngại lời nói của ông có gì phạm thượng, ông nhìn Hưng Đạo như có ý dò thăm.
Hiểu ý Phạm Lãm, Hưng Đạo tươi cười, giục:
- Tiên sinh cứ nói hết ý mình, đừng nên lựa ý chọn lời sao cho đẹp lòng ta. Nếu ta đẹp ý mà dân bất bình, để rồi nước rơi vào tay giặc, thì cả ta và các ông đều có tội với tiền nhân, có tội với dân nước nhiều lắm.
Được lời an ủi, Phạm Lãm hồ hởi nói tiếp:
- Bẩm, xin đức ông và các chư huynh tha lỗi cho, ý thần muốn nói rằng, nếu người dân chỉ có mỗi cái quyền đi đánh giặc và để được chết, còn lợi thì thuộc hết thảy về nước và các quan trên, thì bẩm đức ông, nước không có nghĩa lý gì với họ cả. Và sự thể sẽ là họ trốn lính. Trốn mọi phận sự.
Dạ, ngu ý trên đây, là thần muốn đáp ứng lòng mong mỏi của đức ông, sao cho dân chóng giàu, và người dân hết lòng với nước. Đương nhiên là phải có va chạm đến quyền của các vương hầu. Bởi lẽ ruộng đất chỉ có hạn, nay muốn quân phân cho dân chúng, nếu không xẻn bớt quốc điền và điền trang, thái ấp thì lấy đâu ra? - Phạm Lãm ngừng lời. Trong thâm tâm ông cũng lo lời nói thẳng của mình. Nhất là lại đối với người mình hằng kính trọng.
Phạm Lãm vừa dứt lời, Nguyễn Thế Trực đã đứng lên. Ông nói:
- Trình đức ông, nếu các việc như Phạm tiên sinh vừa nói, được triều đình chấp thuận cả, thì lo gì ta không có binh nhiều, binh mạnh. Và theo ngu ý của tiểu sinh, đức ông thử suy ngẫm xem, ta có nên đặt thành lệ miễn việc quân cho những người còn cha mẹ già yếu, không nơi nương tựa. Hoặc những người chủ gia đình, nếu thiếu họ, vợ con sẽ lâm cảnh khốn cùng. Lại nữa, các gia đình chỉ có một con trai, cũng nên miễn việc quân cho họ. Còn như cha mẹ mới mất, thì được hoãn việc quân sáu tháng. Người nào đang ở trong quân, có cha mẹ chết, cũng cho về nhà cư tang sáu tháng. Ngoài các điều tha giảm trên đây, kẻ nào vi phạm đều bị khép vào tội ngũ nghịch mà trị.
Tiếp lời Nguyễn Thế Trực, Ngô Sĩ Thường tâu:
- Nếu những điều khải thị lũ thần vừa tâu như hạn nô, hạn điền, cấp đất... mà được đức ông cùng hoàng thượng chuẩn cho, thì triều đình phải ban bố thành một chương luật mới, bổ túc thêm cho bộ quốc triều hình thư.
Trần Thì Kiến rất lấy làm tâm đắc về cao ý của Ngô Sĩ Thường, ông nói:
- Từ cổ đến nay, các học giả đã bàn nhiều về nhẽ trị loạn nhưng đều không ngoài ý của Khổng Tử. Tức là không lo ít , chỉ lo không công bằng; không lo nghèo mà lo không yên ổn. Vậy muốn cho công bằng và yên ổn thời chỉ có giữ nghiêm pháp luật. Muốn giữ nghiêm pháp luật, không gì bằng những người cầm cân nảy mực trong bộ máy quốc gia, không được đứng ra ngoài hoặc đứng trên pháp luật. Về việc này trong thời tiên đế, Thái sư thống quốc Trần Thủ Độ đã nêu một tấm gương rực sáng, không những cho đương thời, mà còn cho muôn đời con cháu.
Nghe những lời tâm huyết đầy nghĩa khí của đám mưu sĩ và gia thần, Trần Hưng Đạo rất lấy làm cảm kích. Đúng là nuôi tướng ba năm dùng một giờ. Đúng là những người này cảm mến cái đức của ông, nên ông mới lưu giữ được họ ở lại thái ấp. Trước sau, ông vẫn đãi họ như đãi những bậc thượng khách. Và ông kính họ, như kính các bậc quốc sĩ. Mặc dù tuổi họ còn ít. Có người còn thua cả tuổi con ông như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu. Còn về đường tài năng, quả là họ chưa có gì hiển lộ, chưa có cơ hội để họ bộc lộ chân tài. Nay nước nhà bị bọn giặc ngoài dọa nạt xâm lăng, bao nhiêu điều uẩn khúc như một búi tơ vò rối, lòng còn đang ngổn ngang, chưa biết chuyển xoay thế nước ra sao, thì chính họ - những kẻ được người đời gọi là bạch diện thư sinh này đã toan tính cùng ông... Trần Hưng Đạo đang mải miết nghĩ suy về những điều mà gia tướng, gia thần của ông mách bảo, thì Phạm Ngũ Lão lại nói:
- Các bậc huynh trưởng đã bày tỏ với đức ông đến cạn nhẽ, về các kế sách làm cho dân giàu nước mạnh. Thần tuy là một tướng trẻ bất tài, cũng xin trình đức ông một mẹo nhỏ. Đức ông thường dạy: “Quân cần tinh chứ không cần nhiều”. Nay quân của ta không nhiều mà cũng chưa tinh. Vậy xin đức ông, trước hết hãy mở hội thi võ trong vùng ấp An Sinh này. Hội mở từ các xóm thôn, cứ tinh tuyển dần lên tới xã, tổng, trấn, lộ. Thi đủ các môn: vật, võ, đao, kiếm, côn, quyền, bắn cung, bắn ná... Thi bơi. Thi lặn. Lặn sâu, lặn lâu, lặn xa. Thi mang vác nặng. Thi đi nhanh, chạy nhanh, thi đua thuyền, đua ngựa. Cỡi ngựa, bắn cung... Rồi chim đưa thư, chó đưa tin, ai nuôi luyện được các loài cầm thú trên, đều được trọng dụng. Cứ là dân biết đến đâu, thi đến đấy. Biết môn nào thi môn ấy. Trong khi dân gian thi, thì các vương hầu cử người đi lựa tuyển. Nhân tài từ đấy mà ra. Nếu năm nay được một, sang năm ắt phải được hai ba lần nhiều hơn. Xin đức ông hãy cứ thử một phen - nói tới đây, Phạm Ngũ Lão ngừng lời.
Trong cuốn sổ “MƯU THUẬT”, Trần Hưng Đạo ghi gần kín những lời bàn tâm huyết - những kế sách hưng quốc, hưng binh.
Đêm dã khuya, các đĩa đèn đã cạn dầu, những con muỗi, những con thiêu thân ngã vào ngấm dầu trương phình lên, nay bắt đầu cháy và lép bép nổ như bỏng rơm. Ngay đầu sảnh, bọn đầu bếp dã dọn sẵn cháo gà. Trước khi về nghỉ, Trần Hưng Đạo cảm kích nói thêm đôi lời:
- Những điều các ông tỏ bày, đều là những việc cấp kỳ, không thể không làm. Có diều, các việc đó sẽ đụng chạm đến lợi lộc của một số người quyền cao chức trọng. Quả thật, việc này làm được là muôn khó. Vì rằng, từ lâu người ta dã quen sống với việc chỉ nhận thêm vào hơn là phải xén bớt di, dù là quyền hay lợi cũng thế cả thôi.
Một phút đắn đo, gương mặt Hưng Đạo đầy đau khổ, như là ông đang vận nội công để nuốt trôi đi cả một túi mật đắng đang chẹn cứng nơi yết hầu. Sau giây lát phân tâm, Trần Hưng Đạo lại trở về với bản ngã đoan chính.
Bằng một giọng trầm ấm, ông nói thật là khúc chiết, rành rõ:
- Các việc trên đều phải được thực hiện. Vì nó là quyết sách sống còn của cả dân tộc và vương triều. Việc đó sẽ bắt đầu từ thái ấp An Sinh, từ phủ Hưng Đạo!

CHƯƠNG 9 :

Trần Nhân tôn cứ đọc đi dọc lại mãi bài: “ Tống Sài Trang Khanh” của Trần Quang Khải. Thái sư đưa tiễn Sài Thung lên tận biên ải. Và bài thơ này làm đêm trước khi Sài Thung rời đất Lạng Châu. Tức là sau khi Sài Thung đã dằn lòng nhận chuyển biểu chương của nhà Trần, xin hoãn các việc mà Hốt-tất-liệt đòi, với lời chứng của sứ giả rằng những điều trần tình trong biểu là thực.
Nhân tôn nhớ bữa thết yến Sài Thung tại điện Tập Hiền. Y cứ khăng khăng đòi nhà vua phải vào chầu. Mặc dù nhà vua có nói sức yếu, đường xa, thủy thổ không hợp. Không bắt bẻ thêm được, y lại đòi phải cho hoàng tử làm con tin. Nhà vua bèn cho gọi hoàng tử vào. Lúc ấy hoàng tử mới có sáu tuổi. Dáng người khôi ngô nhanh nhẹn. Hoàng tử vái chào vua cha và mọi người, rồi cúi chào Sài Thung. Sài Thung cứ khen mãi thái tử có quý tướng. Nhân tiện nhà vua lại nói: “ Mới chỉ có được một con. Trẻ nhỏ không chịu được nắng gió, lại sống xa sự dưỡng dục của cha mẹ, e không chịu nổi, xin quan chánh sứ hiểu lòng cho”.
Vậy là cứ từng điều một trong chiếu của vua Nguyên, đem ra bàn bạc cho cạn nhẽ. Điều nào Sài Thung cũng đuối lý, không ép được. Cuối cùng y dằn dỗi nói:
- Ta đến An Nam không phải chỉ có việc úy lạo các ông. Mà đem chiếu của thiên tử nhắc các ông những việc từ trước chưa chịu làm. Nay các ông vin hết cớ này đến cớ khác, để thoái thác mệnh trên. Ngay việc tự quân đây lên ngôi cũng chưa có mệnh thiên tử. Lại không chịu lạy chiếu, thì sao tỏ được phận dưới trên. Rồi việc quân, việc lương, việc biên kê hộ khẩu nhất nhất chối từ. Vậy thời, trở lại Đại đô ta tâu với thiên tử như thế nào? Nếu cứ theo ý của các ông, ta không những bị cất chức, mà còn bị cắt cả đầu. Thôi thì, ta nói trước với các ông ở đây, để khỏi mất lòng nhau. Rằng ta sẽ cứ tình thực tâu lên thiên tử: “An Nam cưỡng mệnh” .
Mặc dù lời lẽ Sài Thung có dịu đi nhiều, nhưng sự thắt buộc của y lại càng ráo riết. Chỗ nào chưa được rốt ráo thì tên phó sứ lại nhấn nhá thêm cho chặt chẽ.
Nhân tôn đã sai tìm mọi cách ly gián bọn chúng, và đút lót bạc vàng cùng các đồ châu ngọc quý hiếm. Nhưng bọn này cũng nhận một cách dè dặt lắm. Nếu chúng nhất loạt chê không nhận một tí gì, thì cơ sự coi như tan hỏng. Đằng này nhận, nhưng có vẻ lấm lét. Như vậy có nghĩa rằng bọn chúng nghi kỵ nhau, chứ không phải chúng là những chính nhân quân tử. Vì vậy, Nhân tôn sai cứ tìm biếu riêng, mà không đòi hỏi một điều gì. Vì thế, bọn sứ đoàn đã ít sục sạo săn tìm tin tức trong dân. Và cũng bớt hống hách, hỗn xược đối với triều đình.
Cho tới khi sứ bộ của Sài Thung trở lại Yên Kinh, tướng quốc Trần Quang Khải còn theo tiễn. Cứ mỗi trạm nghỉ, Chiêu Minh vương lại tìm cách tặng Sài Thung một kỷ vật. Và kỷ vật sau thường quý hơn kỷ vật trước. Thành thử vàng bạc, châu báu vào tay Sài Thung không thiếu một thứ gì. Có thể làm quan suốt đời ở Đại đô, y cũng không đủ tiền mua nổi một trong những vật quý, đã được Trần Quang Khải trao tặng. Nào ngọc minh châu, ngọc trai đỏ, ngọc trai đen là loại cực hiếm trên đời, đắt gấp trăm gấp ngàn lần vàng. Nào gối quạ, ngọc rết là những vật tưởng như chỉ có trong huyền thoại. Rồi những con giống như voi, rùa, hươu, công, trĩ to bằng cổ tay; cổ chân đúc thuần vàng ròng. Tượng Phật Quán thế âm bằng đồng đen. Đỉnh trầm bằng mã não. Rồi sừng tê, dạ minh châu.. thôi thì không thiếu một thứ gì. Chính những thứ đó đã làm lóa mắt quan chánh sứ, làm nhạt loãng máu đại Hán, và làm lệch đạo trung quân của quan lễ bộ thượng thư. Và vì thế, Sài Thung đã thay đổi dần cách cư xử với quan tướng quốc Trần Quang Khải. Những cung bậc thăng giáng của những lời nói căng thẳng, cậy quyền, hiếp đáp cứ tụt dần so với các quà tặng biếu cứ mỗi ngày một quý hơn và nhiều hơn. Cuối cùng là cách cư xử hòa nhã cười vui.
Vào một đêm trước ngày lưu biệt, Sài Thung đã lâm vào cảnh xúc động thực sự. Và y đã có làm thơ xướng họa với quan tướng quốc. Kể cả việc cam kết, về Yên Kinh sẽ tìm người giúp rập thêm cùng với y, để can gián Hốt-tất-liệt.
Khi Quang Khải cứ gạn Sài Thung gắng giúp, y nói “Bằng mọi cách, tôi sẽ giãi bày để cho thiên tử thấy cái nhẽ của An Nam. Nếu ngài thương, ấy là phúc lớn của dân Nam các ông. Nhược bằng có kẻ xúc xiểm khiến cho thiên tử nổi giận, buộc sớm tối phải ra quân, thì đó là quyền ở ngài chứ không phải lỗi ở tôi. Mong hiểu cho nhau”.
Chính trong cảnh ngộ đó, tướng quốc mới viết bài “Lưu biệt” này để gây cho kẻ kia thêm lòng yêu nể.
Nhà vua cứ xoay đi xoay lại mãi bài thơ và đọc to thành lời.
Tống quân quy khứ độc bàng hoàng”.
Nhân tôn cười phá lên: “Thật không ngờ Chiêu Minh thúc phụ, tướng võ đã giỏi, tướng văn lại càng siêu việt - Tiễn ông về nước tôi thật bồi hồi. Có thật bồi hồi vì phải chia tay ông không? Hay là bồi hồi vì chưa biết ông sẽ nói thế nào với Hốt-tất-liệt về Đại Việt chúng tôi. Ông sẽ góp phần làm dịu bớt đi không khí chiến tranh của tên khát máu Mông Cổ. Hay ông cay cú thúc đẩy cho cuộc chiến mau hơn, với tâm địa độc ác của một tên Hán gian đê mạt.
Lại nữa:
Chủ tân đạo vị phiếm ly trường.
Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân duệ
Cộng xướng thù gian tích đối sàng
Chao ôi, lại còn thế nữa? - Chủ khách say mùi đạo cùng nhau chuốc chén biệt ly. Nói cười vừa chốc lát, than ôi đã dứt áo chia tay! Trong lúc ngâm nga xướng họa, nhớ tiếc khi giường nằm đối diện.
Đúng là tâm sự của các bậc túc nho tri kỷ. Cứ như là Bá Nham - Tử Kỳ không bằng. Sáng suốt thay, trong cảnh đồng sàng dị mộng, nếu không vì nghĩa lớn, làm sao thúc phụ ta lại có thể giấu được tâm trạng căm giận kẻ kia, mà viết ra những lời hoa mỹ này.
Và rồi:
Vị thẩm hà thời trùng đổ diện
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
Ấy đấy, thúc phụ lại còn luyến tiếc và mong mỏi có dịp trùng phùng - Chưa biết ngày nào lại gặp nhau, tay nắm tay kể chuyện hàn huyên.
Nhà vua rất lấy làm tự hào vì có mấy ông chú lỗi lạc. Đối với Chiêu Minh vương Trần Quang Khải thì: đánh tan mưu đồ của cả thiên tử, thiên sứ, khiến mệnh vua, sứ vua không làm tròn. Tay không trở về, tống cho một ít bạc vàng vô dụng, để cho lúc nào cũng lo ngay ngáy. Phần lo việc bại lộ thì mất đầu. Phần lo nếu không được việc, sẽ ăn nói như thế nào với bên Đại Việt.
Đối với Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật lại sớm tỏ ra là một tướng nhân, dũng kiêm toàn. Đúng là ông có tài hàng long phục hổ. Chỉ một việc ông dùng nhân nghĩa, tay không, một mình vào trại giặc, dụ hàng được cả đám dân Man làm phản trở lại hết lòng trung với triều đình, cũng là một chiến công bất hủ.
Lại còn bậc siêu quần như bá phụ Hưng Đạo vương và biết bao nhiêu nhân tài khác nữa, lo gì không đủ sức chống lại quân Nguyên.
Lòng nhẹ lâng lâng, Vua Nhân tôn lên kiệu ra hồ Lục Thủy. Tới bến, nhà vua đã thấy hoàng cô An Tư và đám tì nữ lao xao đón đợi. Một lát sau, kiệu của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cũng vừa tới. Tất cả đều xuống lâu thuyền và cùng xuôi về An Bang.
Trong chuyến đi An Bang lần này, Nhân tôn đem theo hoàng cô An Tư công chúa và thúc phụ Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, là có hàm ý tăng thêm tình thân mật giữa ngành thứ và ngành trưởng. Hầu mong xóa hết nghi ngờ, để ai nấy đều một lòng vì nước mà ra sức giữ yên bờ cõi. Vì rằng sự rạn nứt đã có từ đời tiên đế, cứ âm ỷ mãi. Nhà vua tự biết mình phải làm gì để nối bước thái thượng hoàng và thượng hoàng, cho tình thương tôn tộc không bao giờ trở thành cừu hận. Như bá phụ Trần Tung thì chẳng nói làm gì. Người dốc một lòng cho sự nghiên cứu Phật điển, lại để tâm vào trước tác và tu đạo. Nay thấy nước nhà lâm nguy, tạm gác việc riêng trở về thái ấp, tự săn sóc việc chiêu binh và tập luyện. Đến như thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện ( con của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang) thời thật là khó hiểu. Thế nước đang như chuông treo chỉ mành lại bỏ về Thiên Trường, lấy cớ là học đạo Lão trang, cầu tìm sự trường sinh bất lão, không biết để làm gì? Nếu nước mất, đạo kia sao còn? Đây hẳn chỉ là sự bất như ý trong vị thế cao thấp, mà hầu cho rằng chức kia với tài này không cân xứng. Nhân tôn tự nghĩ rằng, những mối bất hòa này nếu không được hóa giải mà cứ để âm ỉ, tới một ngày nào đó sẽ bùng lên, mà như thế thì sức mạnh đâu để chống trả với quân thù.
Thuyền xuôi chừng vài bốn dặm, nhà vua sai quạt trà, rồi mời Chiêu Văn vương lên vọng lâu đàm đạo.
Chiêu Văn với Nhân tôn tình là chú cháu, nghĩa là đạo vua tôi. Hai người tuổi lại xấp xỉ nhau. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật sinh năm ất mão (1255), còn nhà vua sinh năm Mậu ngọ (1258). Trước khi Nhân tôn lên ngôi và Chiêu Văn chưa đi trấn trị đạo Đà Giang, hai chú cháu thường gặp gỡ vui chơi đàm đạo. Nhất là phủ Chiêu Văn, không lúc nào không nườm nượp khách vào ra. Chiêu Văn biết nhiều tiếng nước khác. Ngoài tiếng Trung Hoa, thì sứ các nước Tiêm la, La-hộc, Champa, Chân-lạp tới Thăng Long, triều đình đều phải nhờ ông đến tiếp và thông dịch. Tính tình ông lại vui vẻ, cởi mở, nên tân khách kéo đến mỗi ngày một đông. Ngay cả một số cựu thần và binh sĩ nhà vong Tống, cũng đến tá túc tại nhà ông khá nhiều. Ông có lưu giữ họ lại, và phiên chế thành một đội, gọi là Tống binh, do ông chỉ đạo việc tập luyện và hành binh.
Khi Trần Nhật Duật trèo lên vọng lâu thì Trần Nhân tôn thân ra hành lang đón vào. Trần Nhật Duật đã toan thụp lạy, Nhân tôn bèn đỡ dậy và nói luôn:
- Bữa nay trên thuyền xin tạm gác lễ vua tôi, mà giữ tình chú cháu cho được tự nhiên thôi, chú Chiêu Văn ạ.
Trần Nhật Duật cười ha hả - Chỉ sợ tới một lúc nào đó bệ hạ lại quở trách thần - Nhờn phép nước, bỏ lễ vua tôi.
- Không. Lễ vua tôi thì không bỏ. Bỏ thì mất hết kỷ cương. Nhưng là ở nơi triều chính thôi. Chú không nhớ hồi còn sinh thời đức Thái thượng hoàng đã cho làm cả một cái sàn dài. Thiết triều xong, cha con, anh em, chú cháu về nhà đánh chén rồi ôm nhau mà ngủ. Các chú còn đánh vật ầm ầm kia mà. Chú có nhớ cái bữa bác Tĩnh Quốc múa điệu người Hồ được tiên quân ban áo cho không?
( Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, con đầu của Trần Thái tôn, nhưng thực là con của Trần Liễu.)
Trần Nhật Duật lấy tay vỗ lên trán rồi “à” một tiếng:
- Nhớ, thần nhớ ra rồi. Bữa ấy vào đầu mùa đông năm Mậu thìn (1268). Sau lễ Thường tân ( Lễ cúng cơm mới vào ngày 10 tháng 10 hàng năm) mới có cuộc vui đó. Ngày ấy bệ hạ còn bé lắm, mới có mười tuổi, còn thần thì mười ba tuổi. Thần còn nhớ sau khi anh Quốc Khang được vương phụ ban áo, thì vương huynh ta (Trần Thánh tôn) cũng nhảy ra múa kiểu người Hồ để xin lấy áo ấy.
Tĩnh Quốc bèn nói:
- Quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần không dám tranh với chú hai, nay đức chí tôn cho hạ thần một vật nhỏ mọn này mà chú hai còn muốn cướp lấy chăng?
Phụ vương ta cười lớn mà rằng: “Thế ra mày coi ngôi hoàng đế với cái áo này không kém gì nhau”. Thượng hoàng khen mãi anh Quốc Khang về tính khiêm nhường, rồi ban cho áo ấy.
- Bây giờ, cháu cũng chỉ mong sao trong hoàng gia và hoàng tộc ta, có được tinh thần hòa mục đó - Nhân tôn vừa nói vừa đưa mắt nhìn Trần Nhật Duật với ý thăm dò. Một lát, nhà vua nói tiếp - Việc lớn như phụ vương cháu với bác Tĩnh Quốc, còn chẳng để lại điều gì ấm ức, thế mà tự dưng Chương Hiến hầu lại bỏ nhiệm sở đi tu đạo trường sinh, cháu thật không hiểu nổi. Đất nước thái bình chẳng nói làm gì, đằng này giặc ngoài đang đe dọa, họa chiến tranh chỉ còn trong gang tấc, người biết nghề không ai làm như vậy - Nhân tôn lại liếc nhìn khuôn mặt vô tư bừng sáng của Trần Nhật Duật, và gặng hỏi - Theo ý chú, nên như thế nào?
Trần Nhật Duật vẫn lắng nghe nhà vua nói, nhưng mắt ông bị hút vào đám mây bông trắng nõn trên nền trời xanh ngắt. Đám mây biến ảo kỳ lạ. Thoạt tiên nó có hình như trái núi. Rồi tự tan ra như hình chiếc ngai, và lố nhố hình người quỳ phủ phục như đương buổi thiết triều. Sau đó, lại là hình lũ quỷ, đang vờn đuổi nhau. Và bây giờ, thì loãng chìm trong màu xanh sẫm, không để lại dấu vết gì. Thoáng lát, gây trong ông một ấn tượng buồn. ông có cảm giác, các hình thù kia, tựa như một triều đại đã đi qua, một cuộc đời đã đi qua mà chẳng để lại một dấu vết gì trên trần thế. Cuộc đời con người, so với chuyển xoay của vũ trụ, có khác nào cảnh tượng ta vừa nhìn thấy. Vậy mà con người không tự biết, cứ đi tranh giành những thứ hư ảo để làm chi? Ngay cả bọn Thát-đát. Ngay cả tên chúa Mông Cổ Hốt-tất-liệt, đang đô hộ miền đất đai Trung Hoa mênh mông kia cũng thế mà thôi. Y có hơn gì các người khác. Thật tình, nó cũng chỉ là một thứ “Sú bì đại” như phụ vương ta đã nói.
( Sú bì đại: Cái túi da đựng các đồ thối tha. Ý Trần Thái tôn nói về con người.)
Chợt tên trà nô dâng lên một khay với hai chiếc chén ngọc và một bình ủ nước. Nhân tôn ra hiệu cho lui. Nhà vua tự tay rót mời. Nước được một tuần. Nhân tôn lại nhắc - Theo ý chú, tại sao Chương Hiến hầu Trần Kiện bỏ đi tu đạo? Triều đình nên cư xử việc này ra sao?
Như là một sự khó nói. Để có thời gian cân nhắc, Trần Nhật Duật tự tay rót cho mình một chén trà nữa. Ông đi thẳng vào điều mà Nhân tôn đã hai lần gặng hỏi. Đặt chiếc chén xuống, nhìn thẳng vào gương mặt phúc hậu nhưng không kém phần kiên nghị của nhà vua, ông nói:
- Chuyện về dòng trưởng dòng thứ, giữa bên nhà ta với bên phủ Hưng Đạo, bệ hạ biết hết cả rồi chứ?
- Dạ. Chuyện ấy thì cháu biết?
- Thế còn chuyện tại sao phụ thân bệ hạ được lập làm đông cung rồi được truyền ngôi, còn Tĩnh Quốc đại vương phải vào trấn trị Thanh Hóa, bệ hạ biết chưa?
- Dạ cháu biết rồi ạ.
- Biết như thế nào?
- Là bởi tiên đế xét thấy phụ thân cháu có đức hơn ạ.
- Không phải như vậy. Bệ hạ nhầm đấy.
- Bẩm chú, thế thì vì cớ gì tiên đế lại bỏ trưởng, lập thứ?
- Chuyện cũng chẳng tốt đẹp gì. Đây là việc của các bậc tiền bối. Mà chính là do sự sắp đặt của Linh từ quốc mẫu với Thượng phụ thái sư Trung Vũ đại vương Thượng trụ quốc, đệ nhất Khai quốc phụ chính đại thần Trần Thủ Độ. Trời ơi, đây là con người có một không hai trong lịch sử. Một con người mà chắc chắn hậu thế sẽ mất khá nhiều thời gian xét định- Thiện ư? Sao ông ấy vướng vào nhiều việc tàn bạo thế - Ác ư? Sao ông ấy bỏ cả cuộc đời vào việc hưng nước an dân, cứu cả một dân tộc thoát khỏi vòng nguy họa. Riêng thần xét đoán thời: không có đức Trung vũ đại vương, sẽ không có nhà Trần. Được, rồi thần sẽ nói vì sao bỏ trưởng lập thứ, ấy là vì tiên đế, sau khi gá nghĩa với công chúa Chiêu Thánh, hơn mười năm sau vẫn không có con. Nói đúng ra thì có một lần nhưng không nuôi được. Mãi năm năm sau không sinh được nữa. Linh từ quốc mẫu với Đức ông sợ bị phạt tự ( không có con trai) bèn ép tiên đế phải lấy vợ của anh, tức Hiển Từ hoàng thái hậu sau này (lúc ấy là phu nhân Yên Sinh vương ( tức Trần Liễu, anh ruột Trần Cảnh (Trần Thái tôn), cha đẻ của Trần Quốc Tuấn). Chẳng là khi Hiển Từ về với tiên đế, đã mang sẵn một bào thai ba tháng. Sinh ra, người ấy chính là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Lý thì vẫn là con ruột của tiên đế, nhưng tình lại không phải thế. Vì vậy mới có chuyện bỏ trưởng lập thứ. Buộc phải làm thế, nhưng tiên đế cư xử độ lượng lắm, nên Tĩnh Quốc cũng không oán thán gì. Tới nay, Trần Kiện vì không biết nhẽ tới lui lại kíp đến việc mới đây hoàng thứ tử Đức Việp( Con thứ của Trần Thánh tôn, em ruột của Trần Nhân tôn.) được phong tặng Tá thiên đại vương, nên ngầm có ý ghen tỵ, bỏ đi tu đạo. Việc này để rồi thần sẽ nói với Tĩnh Quốc bắt Chương Hiến hầu phải tái nhiệm sở.
Nghe xong vua Nhân tôn thở dài. Hẳn là trong lòng nhà vua không được vui.
Mãi lâu sau, Nhân tôn mới lên tiếng. Giọng nhà vua rời rạc :
- Phải gỡ bỏ hiềm khích trong hoàng tộc. Nếu không thì mối nguy sẽ từ đấy mà ra. Việc này tự thân cháu phải làm. Phải gỡ bỏ các thứ tư riêng hiềm oán, thể nhập vào với đại cuộc của quốc gia dân tộc, may ra mới giữ được nước. Bây giờ chia rẽ là chết, chú Chiêu Văn ạ. Kẻ thù không mong gì hơn thế.
- Thần cũng nghĩ như bệ hạ.
Hai chú cháu trò chuyện thì An Tư công chúa kéo theo một lũ tỳ nữ, vừa chạy vừa nói và thở hồng hộc. Vừa ló vào vọng lâu, An Tư vừa nói:
- Giời ơi, mấy chú cháu bỏ lên hết đây đàm đạo. Sướng thật. Nói chưa dứt lời. An Tư leo tót lên vọng lâu. Đám tỳ nữ đứng ngơ ngẩn nhìn lên.
Trần Nhật Duật nhìn cô em gái nghịch ngợm vào loại nhất trong hoàng cung, hỏi:
- Công chúa An Tư !
- Dạ, vương huynh dạy em điều gì ạ?
- Em có biết ai đây không? - Chiêu Văn vương vừa hỏi vừa chỉ vào Trần Nhân tôn.
An Tư hết nhìn Chiêu Văn lại nhìn Nhân tôn như một sự lạ Rồi nàng phá lên cười.
Chờ cho em gái dịu cơn cười, Trần Nhật Duật nhắc lại:
- Ta hỏi, em chưa trả lời đấy, An Tư !
- Trời ơi! (An Tư nhíu mày). Đây là Trần Khẩm, con ruột hoàng huynh Thánh tôn, ai còn lạ gì mà anh khéo vờ.
- Suỵt! Trần Nhật Duật đưa tay bịt miệng An Tư – Đồ qủi sứ, em ăn nói gì vậy. Đây là đức vua của cả nước. Em chỉ quen thói càn dỡ.
- Lại còn thế nữa! - An Tư ngoẹo đầu giễu cợt - Vua của cả nước chứ vua gì của em.
- Nhưng em phải biết giữ lễ chứ. Đây là ở trong nhà không ai biết. Chứ nếu ra đường hoặc đang buổi thiết triều mà em ăn nói như thế này, các quan đàn hặc, là em mất đầu như chơi.
Là một cô gái thông tuệ, nghịch ngợm và mẫn cảm, trước mọi việc xảy ra, An Tư công chúa thường ứng đáp được tức thời. Nàng vội rụt cổ lại, đưa tay lên sờ khắp một vòng từ yết hầu tới gáy. Rồi nàng lắc đầu nói:
- Trước hết là em không có can dự vào việc triều chính. Nên chẳng bao giờ em ló mặt vào chỗ vua tôi các anh thiết triều làm gì. Lại nữa ra ngoài đường, ai dại gì đi với vua. Mỗi lần vua của anh ra đường là em chúa ghét. Kiệu trước, kiệu sau, lính cấm vệ, lính hổ bôn xớn xáo săn đầu săn đuôi, quát hét như mấy thằng rồ nhảy múa trên sân khấu của đám giáo phường. Khiến người đi đường phải chạy dạt ra hai bên. Ai không kịp chạy thì phải cúi đầu phủ phục xuống mép đường. Trông thật thảm hại, y hệt mấy con ngựa bị hổ đuổi không kịp chạy, phải rúc đầu vào bụi rậm, còn hai chân sau thì đá tít lên, trong khi mắt nhắm nghiền. Đã sinh ra đường đi lối lại, là để cho mọi người cùng đi, cớ sao chỉ có mỗi một nhà vua đi?
- Đây là nghi thức của triều đình, em chẳng hiểu gì cả - Nhật Duật giảng giải cho em gái về lễ nghĩa triều đình rất kỹ- Vả lại đó là để tỏ rõ phận thần dân kính cẩn đức vua của mình - ông nói thêm.
- Vậy chớ nếu vua của anh rong ruổi suốt ngày ở ngoài đường, thì dân chúng lội sông lội suối hết à? Dở. Dở lắm. Bỏ cái kiểu đi đứng quá quắt ấy ngay đi, kẻo dân người ta ghét. Em đây còn ghét nữa là dân.
- Em chỉ được cái bướng bỉnh là không ai bằng. Phép nước chớ đâu phải chuyện đùa.
- Em nói thật nhé, anh Chiêu Văn- công chúa An Tư nhìn anh với vẻ chế giễu, lại nhìn Nhân tôn với vẻ thăm dò - Em nghĩ đây là chuyện đùa chứ không phải là phép nước. Nếu đúng là phép nước, thì đây là điềm gở, nó từa tựa như nạn động đất, sao chổi hoặc một điều gì na ná như vậy. Mấy lại luật lệ phép tắc gì, cũng đều do các anh bịa đặt ra cả thôi - Với vẻ nghiêm trang đột ngột, công chúa kính cẩn nhưng cao ngạo, quay ra nói với nhà vua - Bẩm đức chí tôn, thần thiếp nói thế có điều gì tỏ ra bất kính với bệ hạ không?
Trần Nhân tôn mỉm cười đáp:
- Hoàng cô An Tư, những điều cô vừa nói là rất hợp đạo làm người. Luật lệ như thế, không phải là hà khắc, nhưng quá quắt, gây phiền toái cho dân. Hồi còn tiên đế đã nói : “Luật lệ là phải làm cho dân được tiện, được lợi. Cái gì không lợi cho dân, cũng sẽ là không tiện cho dân”. Hoàng cô cứ yên tâm, những gì không cần thiết cho dân phải được bãi bỏ. Hoàng cô nói đúng, luật lệ gì thì cũng đều ở trong tay những người có quyền, có thế cả. Vì vậy ngay bây giờ, luật này bãi bỏ. Nay mai sẽ bố cáo cho toàn dân đều biết.
Lại đến lượt An Tư và Nhật Duật sửng sốt.
- Có thế thật chăng, hoàng thượng? - An Tư hỏi
- Như vậy có vội vàng quá không, thưa đức vua. Thường muốn thêm hoặc bớt một điều gì phải được các đại thần xem xét, nhất là bên thẩm hình viện, và kiểm pháp quan.- Trần Nhật Duật nói và có hàm ý mong rằng, nếu đây là tình cảm xúc động tạm thời của nhà vua thì vẫn có thể xem xét lại.
- Chú Chiêu Văn ạ- Trần Nhân tôn nói- ý của hoàng cô An Tư đúng đấy. Hoàng cô mang tiếng là nghịch ngợm, nhưng cô ấy sống gần dân hơn chú cháu mình. Đây không phải là không suy xét. Bỏ đi một điều cấm kỵ vô lý, ta được lòng dân, được gần dân thêm nữa. Nhất là trong cảnh ngộ đất nước đang bị giặc ngoài đe dọa, cháu nghĩ làm bất cứ việc gì để cố kết được toàn dân lại, vẫn cứ nên làm. Suy cho cùng thì ta có mất cái gì đâu chú. Đường sá cầu cống, mọi thứ đều do dân làm ra cả; chứ có phải chú cháu mình làm đâu. Ta bỏ sự cấm đoán đi, dân hoan hỉ như là ta đã ban ân cho họ nhiều lắm. Tuy vậy, cấm hay không, đường đi lối lại ấy, người của triều đình đi lúc nào thì đi, chứ dân họ có cấm ta đâu. Tức là chú Chiêu Văn ạ, - Trần Nhân tôn vừa nói vừa cười - Triều đình chỉ ban cho dân cái mà triều đình không mất.
An Tư công chúa bỗng phá ra cười:
- Thế thì cho tất cả, anh Chiêu Văn ạ, cứ để nhà vua cho tất cả những cái gì ta không mất, để dân chúng được cậy nhờ.
- Không được - Trần Nhật Duật nghiêm mặt, ngay cả những cái cho mà không mất, cũng không được. Nếu cho tất cả những gì mà ta không mất thì triều đình mất hết uy linh, còn trị vì ai được nữa? Ngay cả việc cho mà không mất ấy cũng phải suy xét cho kỹ, và phải sẻn kiệm.
Câu chuyện đang có đà thì bị ngắt quãng bởi viên quan nội hầu vào tâu đến giờ nhà vua dùng ngư thiện. Nhân tôn lệnh cho dùng bữa chung với hoàng cô An Tư và thúc phụ Chiêu Văn. Câu chuyện đột ngột chấm dứt, như nó tự nhiên hình thành. Càng gần tới hạ lưu nước chảy xiết, lại được chiều gió thuận, thuyền đi nhanh vun vút.
Trong khi ăn, An Tư công chúa thỏ thẻ hỏi:
- Anh Chiêu Văn ạ, trên đường nhà vua ra Tịnh Bang, thuyền có qua Tịnh Bang ấp của anh Tuệ Trung không?
- Thuyền có qua Tịnh Bang, nhưng nhà vua không ghé Tịnh Bang ấp, đúng thế không bệ hạ? - Chiêu Văn hỏi.
- Dạ đúng - Vua Nhân tôn đáp.
- Ôi thế thì chán lắm - An Tư nũng nịu - Xin bệ hạ cùng hoàng huynh ghé thăm Tịnh Bang ấp một chuyến.
- Nhưng chú Tuệ Trung lại không ở Tịnh Bang, thưa hoàng cô.
An Tư là một cô gái bướng bỉnh, lại được thượng hoàng cưng chiều. Tuy còn ít tuổi, công chúa đang ở tuổi mười lăm, nhưng tính nết hơi lạ, đã thích cái gì thì làm cho bằng được. Con gái mà chỉ thích cưỡi ngựa, bắn cung. Thích đi đó đi đây, thăm hết danh lam thắng cảnh này đến đền đài, đình miếu khác. Thấy hai người không muốn ghé ấp Tịnh Bang, công chúa tỏ vẻ khó chịu. An Tư nói như nói với chính mình:
- Quí nhau thì ngay cả khi người ta không có nhà cũng cứ đến. Biết đâu chuyến đi này lại chẳng là chuyến đi cuối cùng.
Biết không cho công chúa vào thăm Tịnh Bang ấp cũng không được. Nàng sẽ đay nghiến chọc giận suốt cuộc hành trình. Nhân tôn bèn đưa mắt ra hiệu cho Chiêu Văn. Hai chú cháu ngầm hiểu ý nhau. Sau bữa ăn, Chiêu Văn báo cho viên chu sư ghé Tịnh Bang ấp.
Mãi tới khi thuyền áp mạn vào bờ, An Tư công chúa vẫn chưa hay biết đây là đâu. Vì thủy đạo tại miền đất này, lần đầu tiên nàng đặt chân tới, nên mọi chuyện nàng đều ngỡ ngàng mới mẻ cả.
Lên bờ dẫn bộ được một lát thì gặp tiểu dinh thự hiện ra. Và khi đi sát tới cổng thấy ba chữ đề “TỊNH BANG ẤP”; An Tư công chúa sững sờ. Nàng không ngờ, hoàng huynh và vương điệt đã dành cho nàng một ân huệ. Nàng bèn quay lại cúi đầu vái nhà vua và anh trai.
Quản gia của ấp Tịnh Bang là một người đàn ông trạc ngoài ba mươi tuổi, khỏe mạnh, cân quắc như một lực sĩ. Tấm thân to lớn của ông được giấu trong bộ áo nâu sồng kiểu nhà chùa. Nom dáng dấp ông ta di chuyển nhẹ nhàng như một con chim, khiến ta liên tưởng tới những tay hòa thượng võ nghệ cao cường trong các thiếu thất của Thiếu Lâm tự. Khu ấp trại mênh mông được chia cho dân cày làm lụng, chỉ phải nộp cho chủ một phần chín sản lượng thu được, kiểu như chế độ tỉnh điền xưa( Chế độ nộp tô cổ đại theo kiểu chữ Tỉnh, tức là ruộng đất chia làm 9 phần. Tám phần xung quanh của nhà dân. phần ở giữa của nhà quan. Nhưng từ cấy đến gặt 8 nhà dân phải chịu trách nhiệm).
Nhà vua không dùng nghi lễ xa kiệu hoàng đế, mà cải dạng như người thường. Còn Trần Nhật Duật và An Tư ăn vận kiểu cách tuy có sang trọng, nhưng bất quá cũng không hơn mấy so với các nhà quyền quí. Vả lại Trần Nhật Duật cũng chỉ nói là người nhà của Trần Tung từ Thăng Long ghé thăm.
Viên quản gia sau khi mời khách an tọa ở nhà thư trai, bèn tự xưng danh phận:
- Tôi là cư sĩ Viên Sơn, hiện được thầy tôi (ý nói Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung) phó cho việc trông nom Tịnh xá. Và san định kinh sách Phật điển do thầy tôi xướng xuất.
Trần Nhân tôn qua vài lời hỏi han việc trước tác của thầy trò Viên Sơn, liền ngỏ ý muốn được xem Tịnh thất.
Viên Sơn bèn mời khách lên thăm. Đó là một ngôi nhà không lớn lắm, làm theo kiểu chuôi vồ. Hai gian đầu nhà bầy khít các kệ sách. Gian giữa nhà xây lên một sàn gạch cao hơn bề mặt độ hai gang tay. Ở đó có bày một vài cái kỷ, mỗi kỷ lại có đủ cả đồ văn phòng tứ bảo. Gian chuôi vồ, cũng gọi là hậu cung, trên bức tường chắn phía hồi sau, vẽ một bức tranh choán hết khung tường. Đó là hình ảnh Đức Phật Thích Ca đang giảng kinh Kim Cương cho 1.250 vị Đại Tỳ Kheo ở trong Tịnh xá Kỳ Hoàn, nơi vườn của Thái tử Kỳ Đà nước Xá Vệ. Ở một góc tranh có ghi bài tụng, mọi người đều nhẩm đọc:
Nể hỷ ngã bất hỷ
Quân bi ngã bất bi
Nhạn tư phi hàn bắc
Yến ức cựu sào qui
Hai câu cuối mờ quá không đọc được, trong khi Viên Sơn cư sĩ lại vừa chạy ra ngoài lo trà nước. Lập tức nữ tì Yến Ly bèn đọc tiếp:
Thu nguyệt xuân hoa vô hạn ý
Cá trung chỉ hứa tự gia tri
Dịch nghĩa:
Người vui ta chẳng vui
Người buồn ta chẳng buồn
Nhạn bay về biển Bắc
Yến nhớ ở trời nam
Xuân hoa thu nguyệt vô cùng ý
Lãnh hội thế nào tự mình thôi.
Đại ý bài này diễn tả Bát Nhã vô trụ, Bát Nhã chân như. Có nghĩa rằng việc hiểu đạo là tự bổn tâm mỗi người.
Mọi người đều kinh ngạc hỏi tại sao nàng biết. Yến Ly vòng tay cung kính đáp:
- Muôn tâu bệ hạ, đây nguyên là bài tụng của ngài Xuân Thiền sư, làm sau khi đã lãnh hội được diệu nghĩa của Kinh Kim Cương Bất Nhã Ba La Mật, mà thần thiếp có được đọc qua từ nhỏ.
Vừa lúc ấy thì Viên Sơn cư sĩ cũng đã bước chân vào Tịnh Xá, và nghe được trọn vẹn câu chuyện trên. Ông rập đầu kêu lên: “Cúi xin thánh thượng đại xá cho lũ quê hèn chúng tôi, có mắt cũng như đui”.
Nhân tôn vội đỡ dậy và an ủi:
- Đó là lỗi tại trẫm, chớ đâu tại cư sĩ. Trẫm đi lặng lẽ là bởi không muốn cho tai mắt kẻ thù dòm nom thấy. Nhưng xin cư sĩ cho hỏi, tại sao trong Tịnh thất lại không có bày tượng, mà chỉ có mỗi hình Đức Phật đang giảng kinh tại vườn nhà thái tử Kỳ Đà nước Xá Vệ.
- Dạ, muôn tâu bệ hạ, - vị cư sĩ vừa nói vừa nhìn đức vua - Thầy tôi và tôi chủ trương theo về yếu ước của Phật giáo nguyên thủy, chứ không chấp nhận các nghi thức thần bí, mà giáo hội sau này tự đặt ra để huyễn hoặc lòng người. Bức tranh đó là thực chứng tinh thần của Phật trên đường hành Đạo. Vả lại việc tu đạo là cốt ở tu tâm. Tu tâm lại chính là tu về cái thiện. Mà thiện thì phải tự mình tu chớ cầu tìm gì ở ngoại lực, ở tha nhân. Chính Phật dạy: Hãy làm điều thiện và trở nên thiện. Và điều ấy sẽ đưa người đến tự do giải thoát và đến bất cứ chân lý nào có thật”.
- Nếu như vậy thì hiểu như thế nào về việc các sa môn đến tu chùa? - Nhà vua hỏi
Cư sĩ đáp:
- Tâu bệ hạ, thầy tôi thường dạy: “Không ai có thể đem nhốt Phật vào chùa được. Phật là cái gì vô thỉ vô chung, là chân lý vĩnh hằng cho thế gian chiêm nghiệm. Còn chùa chỉ là nơi tu tắt của đám thầy tu muốn mau thành Phật”. Tiếc thay, những kẻ tham lam, ích kỷ, khoa trương thường lại được đám dân chúng khờ khạo tin theo. Bình sinh Phật rất ghét cái ác và sự dối trá. Cho nên trong ba đức tính cần yếu mà Phật dạy có “Đại hùng”. Tức là khi cần thì không những chỉ có đệ tử Phật, mà ngay cả Phật cũng tham gia vào việc diệt trừ cái ác. Chuyện thầy tôi giao lại Tịnh thất cho tôi để cầm quân, nhằm chống lại nguy cơ đe dọa xâm lăng của người Nguyên, cứu lấy giang san, nòi giống, cũng chính là biểu lộ tâm Phật chứ không khư khư cố chấp theo con đường ngũ giới. Ngay cả tôi, thầy tôi cũng cho phép nhập thế diệt ác, rồi sau đó nước thanh bình lại trở về với Đạo.
( Ba đức tính đó là: Đại hùng - Đại lực - Từ bi (Sức mạnh - Lòng can đảm - Tình thương người bao dung rộng rãi).Ngũ giới : Năm điều răn, cũng là năm điều cấm kỵ đối với đệ tử Phật: Cấm sát sinh. Cấm trộm cắp. Cấm tà dâm. Cấm dối trá. Cấm các chất cay (rượu).
Nhân tôn lại hỏi:
- Vậy chớ hai câu cuối của bài tụng mực phai, lại mất nhiều nét rất khó đọc. Liệu như nữ tì vừa đọc có đúng không?
- Dạ, bẩm hoàng thượng, thần có nghe nàng đọc, vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Rằng không hiểu vì sao còn ít tuổi, nàng đã thông tuệ Phật điển đến như vậy?
Chiêu Văn vương đưa mắt nhìn An Tư công chúa như dò hỏi: “Chắc em biết rõ chứ. Vì nàng là tì nữ của em kia mà”.
Công chúa gật đầu, đoạn nàng dẽ dàng thưa:
- Yến Ly của em vốn là người Tống. Con nhà đại gia vọng tộc ở Yên Kinh. Loạn lạc chạy sang ta. Lạc cha mẹ trên đường chạy loạn. Nàng trôi dạt tới phủ Chiêu Quốc cách đây dăm năm. Gần đây, nhân buổi viếng thăm anh Ích Tắc đang dạy học tại nhà. Lại nghe đồn đám học trò anh ấy thuần loại thần đồng. Em bèn đến xem họ học. Trời, có cái nhà anh Mạc Đĩnh Chi, người đâu mà xấu thậm tệ. Nhưng thông tuệ khác đời. Bữa em đến, Yến Ly tới phiên dâng trà, và sau đó được phép ngồi hầu giảng. Nàng am hiểu kinh sách lắm, đôi lúc anh Chiêu Quốc có quay lại hỏi nàng vài điều, đều ứng đáp trôi chảy. Đem lòng cảm mến, em ngỏ lời xin về bên này. Anh Ích Tắc bảo: “Nếu phụ hoàng ưng để em nhận thì anh cho”. Thế là tự nhiên em có bạn. Bây giờ thì Yến Ly nói tiếng Đại Việt mình cũng như anh em ta thôi. Còn em đang học cách nói của người Tống, chứ cách mình đọc đây, họ không nghe được. Thành thử cùng dùng chung một thứ chữ, lại hóa ra đồng tự bất đồng ngôn.
Trần Nhật Duật và cả Trần Nhân tôn đều hết sức chú ý lắng nghe câu chuyện này. Vì thực ra trước đây ít ai chú ý tới. Bởi người nhà Tống tị nạn ở bên này nhan nhản, từ binh sĩ đến đại thần có thiếu gì. Vả lại, các nhà quyền quý, nhà nào chẳng nuôi hoặc cưu mang mấy người Tống. Ngay như Trần Nhật Duật, có hẳn một đội binh người Tống thì sao. Tuy nhiên, đây lại là một cảnh ngộ khác. Với Yến Ly vừa đáng thương, vừa đáng trọng. Hơn nữa trong lúc hai bên đang ra sức dò xét nội tình của nhau, biết đâu nhan sắc kia và với học thức cùng sự thông minh lanh lợi, nàng chẳng giúp cho ta được nhiều việc.
Chuyện đang vui vẻ, Nhân tôn giục mọi người tiếp tục hành trình.
Viên Sơn cư sĩ hai ba lần lưu lại, nhưng nhà vua cố chối từ.
Biết không giữ xa giá lại được, cư sĩ bèn nói:
- Muôn tâu hoàng thượng, chủ tôi hiện đang mở cuộc thi võ tại lỵ sở, xin hoàng thượng ghé thăm cuộc tuyển lựa nhân tài cho nước. Dạ, cuộc thi hàng xã, hàng tổng đã cách đây một tuần trăng.
Nghe nói về cuộc thi võ, Nhân tôn hết đỗi vui mừng. Nhà vua thầm nghĩ: “Khá khen cho bác Tuệ Trung một nhà tu hành, một nhà trước tác đã nghĩ ra được cách tuyển người tài để dùng cho nước. Trong khi triều đình cứ mải lo việc khác. Nhưng cái việc cần kíp thiết yếu này, lại không chỉ ra được cho các vương hầu”.
Nghĩ vậy, nhà vua xăm xăm trở lại lâu thuyền, và giục thủy đoàn tức tốc đêm nay phải tới được Tịnh Bang lỵ sở.
CHƯƠNG 10

Sau khi gặp gỡ Trần Quốc Tung ở lỵ sở Tịnh Bang, Trần Nhân tôn và Trần Nhật Duật cùng một số tùy tùng lên ngựa về thái ấp An Sinh. Trước khi rời Tịnh Bang, Trần Tung có đem tặng nhà vua một viên tì tướng vừa mới lựa tuyển được trong hội thi võ của toàn vùng.
Đó là chàng trai hai mươi mốt tuổi, người vùng thượng du Đà Giang. Chàng đem trầm ra bán tận hải cảng Vân Đồn, nhân lúc về qua Tịnh Bang, thấy có hội thi võ. Thế là chàng ghé vào thi đủ các môn, từ vật, đến côn, quyền, đao, kiếm, môn nào chàng cũng được giám khảo liệt ưu hạng. Riêng môn phi ngựa bắn cung, chàng là một tay vô địch. Cách xa một trăm bộ, chàng có thể cho ngựa phi nước đại rồi ngoái ngược người lại bắn trúng hồng tâm. Ai được nhìn thấy những mũi tên của chàng cắm vào đích, cũng đều phải thốt lên hai tiếng: “thần tiễn!”. Trần Tung đã đem chàng về dưới trướng để sai bảo. Nhưng chợt có đức vua ghé thăm, tướng quân bèn đem tặng. Vì ông thấy cần phải có những tay võ nghệ cao cường mà trung thành hộ giá.
Nhất là trong thời chiến, việc đó không thể khinh xuất.
Thế là võ tướng có cái tên Đặng Dương ấy được hầu cận vua Nhân tôn. Và ngay lập tức chàng được xâm trên trán ba chữ “Tọa thượng nô” màu chàm.
( Thời Trần, nô bộc của nhà vua ghi trên trán ba chữ “Tọa thượng nô”. Nô bộc của các vương tôn quý tộc ghi trên trán ba chữ “Quan trung khách”).
Vua Nhân tôn cùng với thượng tướng rong ruổi khi lội suối lúc trèo non, khi lại bám sát bờ con sông Rừng mênh mông nước. Sông lớn, hai bờ sậy, lau, cây cối và rừng già rậm rạp. Xét thấy đường bộ, đường thủy đều rất không thuận tiện cho việc dùng binh của quân Thát-đát, nhưng lại lợi cho việc đánh quân phục của ta. Nhà vua bèn nói với thượng tướng:
- Chú Chiêu Văn ạ, trời cho ta mảnh đất thủ hiểm này để chống lại với bọn cường địch phương Bắc, phải tận dụng cho bằng được, để nhân sức quân lên mà cự giặc.
- Bệ hạ nói đúng. Chắc chắn Hưng Đạo vương sẽ bẫy giặc quanh vùng này.
Khi nhà vua và tùy tùng đến ấp An Sinh, đã sang quá nửa chiều ngày hôm sau. Đường tuy xa xôi hiểm trở, nhưng hai chú cháu còn đang độ tuổi thanh niên nên không cảm thấy mệt mỏi. Vừa tới đầu ấp, được tin thượng hoàng cũng từ Thăng Long xuôi thuyền về từ ba bốn hôm trước. Vậy là việc lưu thủ kinh sư do tướng quốc thái úy Trần Quang Khải đảm nhận.
( Lưu thủ kinh sư: Chức giám quốc khi nhà vua ra khỏi kinh thành. Chức này chỉ giao cho thái tử. Trần Quang Khải vừa là con vua, vừa là tể tướng nên kiêm.)
Trần Hưng Đạo làm lễ cung nghinh hai vua thật là long trọng, và giữ đúng đạo quân thần, song bề ngoài vẫn cứ lặng lẽ khiến cả đám nông phu trong ấp cũng không hề biết khách từ Thăng Long tới. Trong việc binh nhung, Hưng Đạo luôn nhắc mọi người phải giữ đúng qui củ: lai vô ảnh khứ vô hình. Tức là đi lại đều không lưu dấu vết, cốt để che tai bịt mắt quân thù.
Hai vua lần này đi thị sát mạn đông và đông bắc, nhân ghé thăm ấp An Sinh, và hội kiến với Trần Hưng Đạo về các việc quân quốc trọng sự.
Cuộc hội kiến được giữ kín như bưng. Chỉ có hai vua, Trần Quốc Tuấn và Trần Nhật Duật tham dự. Sau khi khớp cả hai nguồn tin của triều đình, và tin riêng của Quốc Tuấn thu được từ Yên Kinh và các tỉnh Kinh Hồ, Phúc Kiến và Lưỡng Quảng đều nhất quán ở chỗ là Hốt-tất-liệt đang ráo riết động binh sang đánh An Nam. Triều đình nhà Nguyên ra sức ép Đại việt cho mượn đường sang đánh Chiêm Thành không được. Thật ra đây cũng chỉ là mưu “đồ Ngu diệt Quắc”. Việc ép không xong, nhà Nguyên có thể khởi binh đánh Chiêm trước. Rồi lấy đất Chiêm làm căn cứ hậu thuẫn. Quân Nguyên sẽ đánh ta từ hai mặt bắc-nam. Kẹp ta vào giữa hai gọng kìm ấy, là các danh tướng đã chinh phục khắp cõi Trung Nguyên và hàng chục quốc gia khác.
Thượng hoàng Thánh tôn vẻ mặt hơi buồn, hỏi Quốc Tuấn:
- Huynh trưởng thử liệu sức quân ta có cự được với quân Nguyên không?
- Tâu thượng hoàng cùng quan gia, nếu cứ ngồi đây mà hình dung ra một đoàn năm mươi vạn quân, với hàng chục vạn lừa ngựa, xe cộ và chiến thuyền, thì chúng thừa sức xéo nát từng bụi cây khóm cỏ, đạp đổ thành trì, chuyển rung sông núi, và chúng thừa sức tàn sát hàng triệu sinh linh. Một khi có đoàn quân như thế đi qua, thì chúng sẽ biến các vùng đất chúng đặt chân tới thành đất chết. Ấy là thần nói cái sức mạnh mà chúng có. Thế nhưng chúng có làm được theo ý chúng không, còn tùy thuộc vào sức mạnh và ý chí của ta. Liếc nhìn thấy sắc mặt hai vua có vẻ không vui, Quốc Tuấn liền hỏi:
- Tâu thượng hoàng cùng quan gia, với cái thế nhân chủ, thần muốn biết thánh ý của thượng hoàng và bệ hạ.
Trần Thánh tôn nói:
- Giặc đến tất phải đánh. Chỉ thương đám con đỏ vô tội.
Biết lòng vua đã núng trước thế giặc, Hưng Đạo gặng hỏi Nhân tôn:
- Vậy còn ý quan gia thế nào? - Rồi quay sang phía Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, ông hỏi - Cao ý của vương đệ trong việc này thế nào?
Trần Nhân tôn sau cái chau mày, dường như nén giấu nỗi căm uất, ông nói:
- Thượng hoàng thương dân như thương con. Nhưng dân cũng thương vua như con thương cha. Cho nên hai bên phải tựa vào nhau mà chống giặc. Thế của ta không thể lùi được. Kẻ kia đã căm thù ta từ cuộc xâm lăng năm Đinh tỵ. Nay nếu lấy được nước ta, chúng phải trả cái hận thua trận hai mươi lăm năm về trước. Vậy thời tôn miếu, xã tắc cùng non sông gấm vóc của tổ tiên truyền lại, lẽ nào để cho chúng dầy xéo.
Nhân tôn vừa dứt lời, Trần Nhật Duật tiếp ngay:
- Bữa trước qua Tịnh Bang, lệnh huynh Trần Tung đã có mở hội thi võ từ xóm ấp tới xã, tổng, lỵ, trấn để chọn tuyển nhân tài. Lại được biết, huynh đã xẻn bớt phân nửa ấp trại của mình chia cho đám nông nô, và cho họ được làm ăn tự do. Đi đến đâu trong vùng Tịnh Bang, cũng thấy dân tình hồ hởi lắm. Phần ra sức cấy trồng, phần vui vẻ cho chồng con đi làm việc quân. Nay đến ấp An Sinh, cũng thấy các việc giống như Tịnh Bang. Rõ ràng là trong việc này, bên phủ Hưng Đạo đã có “Bình Nguyên sách”. Vậy xin huynh trưởng hãy đệ trình sách lược lên cho thượng hoàng ngự lãm.
Trần Hưng Đạo chưa kịp đáp lời, chợt có sứ từ Thăng Long tới - Tướng quốc thái úy Trần Quang Khải cấp báo với thượng hoàng, có sứ đoàn Champa sang xin viện binh. Và thái tử Harijit cũng cho biết, ông vừa bắt được một đoàn thuyền có sứ bộ nước Nguyên, nói là đi Tiêm-la, gồm có vạn hộ Hàn Tử Chí, thiên hộ Hoàng Phủ Kiệt và một đoàn sứ bộ nữa đi Mã-bát-nhi (Măbar), gồm có tuyên úy Vưu Vĩnh Hiền và A’lan (Alan). Họ nói rằng họ tới các nước kia, nhưng bị dạt vào đất Champa. Bất chấp mọi lý lẽ biện minh, triều đình Champa cứ sai bắt giam lại tất cả. Việc này ắt không tránh khỏi can qua.
Nghe thông bạch xong, Trần Hưng Đạo trầm ngâm một lát, bỗng ông tươi tỉnh hẳn lên, nói:
- Vậy ta có chí ít là một năm để dự phòng binh lực. Yên Kinh không thể cất quân đánh Đại Việt trước năm Quí mùi (1283). Thật là trời giúp ta. Xin thượng hoàng và hoàng thượng quyết ngay việc cử binh giúp Chiêm Thành. Ta giúp họ, cũng chính là tự giúp mình. Nếu Chiêm Thành thắng, Hốt-tất-liệt chưa chắc đã dám đánh ta. Nếu Chiêm Thành giữ được ở thế không thắng, không thua thì tình hình còn có thể cứu vãn từ một đến hai năm. Nếu ta có được quãng thời gian hai năm, chắc chắn đủ sức cự giặc.
Trần Nhật Duật cũng nói việc đó rất nên làm. Nếu không, kẻ kia chiếm được Chiêm Thành, ta sẽ bị kẹp giữa hai gọng kìm của chúng. Tình thế sẽ trở nên rất hiểm nguy. Trong khi còn đang bàn bạc, lại tiếp thêm một đạo biểu nữa của Trần Quang Khải gửi tới:
”Tình thế cấp bách. Đợi ý chỉ của hoàng thượng, e chậm trễ. Việc không thể không làm. Thần đã nhận với Chiêm Thành chi viện một vạn quân thủy bộ. Thần xuất quân bản bộ và cử đích trưởng tử Trần Đạo Tái làm tướng”.
Nghe xong biểu, Trần Hưng Đạo lặng người đi. Trong thâm tâm, ông hết sức khâm phục việc làm của Trần Quang Khải. Vừa sáng suốt kịp thời, vừa dám hi sinh vì nghĩa cả. Xuất quân bản bộ, lại cử con mình đi giúp nước láng giềng, dấn thân vào vòng nguy họa; phi các bậc đại trí, đại nghĩa không ai làm nổi. Có một cái gì đấy gần như một sự hối hận dâng lên ở trong lòng. Vì từ trước, ông vẫn đem lòng nghi ngại con người này.
Trở lại công việc đang dang dở, Trần Nhân tôn nói:
- Vừa nãy chú Chiêu Văn có nói đến “Bình Nguyên sách” của bá phụ, chẳng hay điều đó thế nào?
Trần Hưng Đạo ve vuốt chòm râu tới ba lần, rồi thong thả đáp:
- Tâu thượng hoàng, tâu bệ hạ. Từ khi Thát-đát bình xong Trung Nguyên tới nay, lòng thần chưa lúc nào được yên ổn. Vẫn lo sao cho dân trong ấp có cái ăn cái mặc. Lại lo cho binh mạnh lương nhiều. Song, xét ra mới chỉ có ấp An Sinh, ấp Tịnh Bang làm thôi thì chưa đủ. Nay bệ hạ hỏi, thần xin dâng kế “PHÚ QUỐC CƯỜNG BINH”( Nước giầu binh mạnh) chớ như chú Chiêu Văn nói, thần có “Bình Nguyên sách” là chưa đúng. Vì rằng, quân Nguyên mới uy hiếp ta thôi, chứ chúng đã tràn vào cõi ta đâu mà gọi “bình Nguyên” được.
Mọi người đều khen ý của Hưng Đạo là xác đáng.
Trần Hưng Đạo quay vào nhà trong bưng ra một cái tráp nhỏ. Ông mở tráp lấy ra một cuốn sách đóng bìa nâu, hai tay dâng lên thượng hoàng Trần Thánh tôn. Và ông nói thêm:
- Tâu, mọi điều đã được tóm lược thành từng chương mục, lại có chú dẫn, chú giải rõ ràng. Phần lớn các điều ghi trong đó đã được ấp An Sinh làm thử. Gần đây ấp Tịnh Bang cũng đã khai triển.
Ngoài các việc đã nói trong sách, thần xin bày tỏ thêm đôi điều. Tức là sự cấp bách phải mở mang dân trí. Hồi còn tiên đế đã có nói đến mở mang hệ thống tường tự học hiệu, kiểu như nhà Hạ, nhà Thương, nhưng ta chưa làm được. Nay xét trong dân chúng, còn nhiều điều mê muội, bọn có học chẳng đáng là bao, lại chọn dùng vào các chức sắc cả. Nên thần xin triều đình cho mở các trường hàng tổng, nếu như chưa mở được cho các xã. Rồi cứ thế dần dần ta mở mang thêm lên.
( Đời nhà Hạ, nhà Thương trong lịch sử cổ đại Trung Hoa, chủ trương mở trường tới tận thôn ấp cho dân học.)
Việc này xem ra cũng cấp bách không kém việc quân. Vì rằng, một dân tộc mà nền văn hóa thấp, là một dân tộc ngu muội. Để cho việc này duy trì được lâu bền, thần xin triều đình trích lập quỹ ruộng đất, để bảo trợ cho các trường. Và hệt loại đất ruộng ấy vào quỹ học điền, cấm xâm phạm. Lại phải có chính sách khuyến học. Ai có chí học hành, có khiếu năng thông tuệ, triều đình nên cấp bổng cho họ học lên cao.
Và nữa, việc chiêu dụng hiền tài cho nước, là việc vua sáng các đời thường làm. Hiện thời, ta phải làm thế nào quy tụ được các nhà tài đức trong nước. Nếu họ hết lòng vì xã tắc, thì đấy là một sức mạnh thần thánh không thể lường trước được. Triều đình phải coi người hiền tài là kho báu quốc gia. Thiên tử phải nhún mình mà thờ họ thì mới dùng được họ. Giống ngựa hay thường có tật kén chủ, không phải ai cũng dùng được ngựa hay. Người tài cũng vậy, không thể để cho bọn bất tài thất đức sai khiến họ được đâu. Thần khẩn thiết xin thượng hoàng cùng nhà vua, hết sức lưu tâm đến việc này. Bởi thần cũng rất lo ngại, vì ít lâu nay nhiều người có tiếng nói không đồng tình với các quan cai trị các phủ, trấn, lỵ; hoặc có người còn cho một vài chính sách của triều đình là không hợp thời. Bọn họ hết thảy đều bị bài xích. Nhiều người còn bị đe dọa tới cả tính mạng nữa. Có biết đâu rằng, những người dám nói lên chính kiến của mình, hoặc bày tỏ sự bất bình của mình trước công chúng hoặc quan lại, đều là những người có học vấn uyên bác, có tâm thuật vững vàng. Và họ cho điều họ đã suy ngẫm là đúng, là tốt hơn cái hiện có, nên họ mới dám nói. Còn đám người ăn càn nói rỡ thì lại khác. Bọn ấy có thể nói được, chê được, nhưng chúng chẳng làm được cái gì nên hồn. Bọn này thường là bọn a dua, xu nịnh, ăn theo nói leo. Chúng chỉ là một lũ khoác lác phải được loại bỏ và trị tội. Tiếc thay, bọn súc sinh này lại có khiếu năng ton hót, hợp với khẩu ngôn của bề trên, nên thường là chúng vẫn len lỏi được vào bộ máy quốc gia.
Ngay như kế : “Phú quốc cường binh”, thời cũng có phải đâu là ý của riêng thần. Chẳng qua là thần chịu trách nhiệm trước bệ hạ về việc làm đó. Còn hết thảy là do sự nghĩ hiểu các của môn khách, các gia tướng, gia thần trong phủ Hưng Đạo, trong ấp An Sinh qui góp lại. Lúc đầu, thần cũng thấy trái tai trái ý lắm. Ví như việc thả bớt nông nô, xẻn bớt đất ruộng để cho, hoặc bán chịu cho đám nông phu này. Tức là nó làm thiệt của thiệt người của thần nhiều lắm. Sau được các tướng giảng giải; của ấy, người ấy chẳng đi đâu mà mất. Nó vẫn quanh quẩn trong gầm trời Đại Việt. Của không ở trong kho của các vương hầu, thì nằm trong các nhà dân. Nhưng lợi hơn nhiều. Vì rằng đất ruộng ở trong tay thần, một năm chỉ cấy trồng một vụ. Trái lại, đất ruộng ở trong tay đám nông phu, họ làm hai vụ. Thế là vốn ruộng đất chỉ có một, nhưng sản vật lại thu về gấp đôi. Cho nên bây giờ, hệ hạ đi khắp vùng đất của ấp An Sinh này, sẽ thấy nhà nhà bồ lẫm đều đầy thóc lúa. Không ai còn biết đói là gì. Mà thần muốn chiêu binh lúc nào cũng được, chiêu bao nhiêu cũng được, không một ai trốn tránh. Cúi xin thượng hoàng cùng bệ hạ minh xét.
Trần Thánh tôn mải miết đọc kế “Phú quốc cường binh”. Điều lớn nhất ông thâu nhận được trong kế sách, là các vương hầu phải nhún mình để thân dân. Và phải chia sớt một phần của cải tài sản cho dân. Nhà vua tự nghĩ: việc này thật không dễ dàng một chút nào. Có thể các vương hầu sẽ chống lại. Song, nếu là quốc sách trong thời chiến, thì nhất thiết phải cưỡng bách thi hành. Vả lại phủ Hưng Đạo đã làm rồi, các phủ khác, không thể không theo. Việc này, nếu được thi hành khắp cõi, thì đúng như anh Quốc Tuấn nói, chỉ một năm sau, cả nhà nước lẫn nhà dân, đều không đủ kho lẫm mà chứa thóc. Và việc gọi lính sung quân, hẳn không có khó khăn gì. Ông lại nghĩ, hơn lúc nào hết, bây giờ phải lấy sự tồn vong của xã tắc làm trọng. Lợi quyền tư riêng, hết thảy đều phải dẹp bỏ. Phải làm thế nào để từ vua chúa, vương tôn công tử đến thứ dân, ai ai cũng một lòng căm giận quân giặc dữ, quyết liều thân vì nước, có như thế mới đủ sức kháng giặc.
Trong khi Thánh tôn đang chìm nghĩ vào sách lược “Phú quốc cường binh” của Hưng Đạo, thì Nhân tôn lại chú ý đến sự quan hoài khẩn thiết của bá phụ, về việc những người bất đồng chính kiến, có nguy cơ bị áp chế, ngày một gia tăng. Và theo như ý của bá phụ, thì đó phần nhiều là các người tài đức, triều đình phải nhún mình thờ họ, rồi mới dùng họ được.
Suy ngẫm lại, nhà vua thấy đúng. Từ ngày ông lên ngôi hoàng đế tới nay đã 5 năm. Vẫn cứ là bộ máy cũ, những con người cũ do vua cha để lại. Bản thân ông chưa tìm gặp được người hiền tài nào trong thiên hạ. Vả lại, ông cũng chưa hết tâm cầu tìm. Người tài đức, xưa nay vẫn là hiếm quí, triệu người chưa chắc đã có được một hai. Hơn nữa, họ là những người có nhân cách lớn, dễ gì sai khiến họ được. Ấy vậy mà triều đình lại tỏ ra khinh thị những ai trái ý mình. Bọn quan lại từ xã ấp đến phủ trấn, hết thảy đều dương dương tự đắc, coi thường những người chưa có chức tước trọng thiên hạ. Gần đây, nhà vua cũng nhận thấy sự bài xích, đàn hặc, rồi biểu chương tố giác các nơi gửi về ngày một nhiều. Chắc là trong lúc “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”( khi thế nước lâm nguy thì kẻ ngu khờ cũng phải gánh phần trách nhiệm), cho nên mọi người đều hết lòng lo cho nước. Họ thấy chính lệnh của triều đình, mà các quan lại toa rập lâu nay, không còn thích hợp nữa, nên họ phải lên tiếng. “Đúng rồi” - Nhân tôn nghĩ - Nếu không có bá phụ cảnh tỉnh, ắt ta lại nghe đám nội nhân và tam cung lục viện mà áp chế họ, thì thật là phụ lòng họ quá. Được rồi, ta sẽ nghị bàn cho thấu đáo, để sao cho trong công cuộc chống giặc dữ này, không một tấm lòng nào, không một kế sách nào, không một tài năng nào có lợi cho nước, cho dân lại không được huy động vào sự nghiệp cứu nước.
Trần Nhật Duật tuy là một danh tướng trẻ, nhưng không phải là người thiếu sự đằm sâu suy tưởng, mặc dù ở kinh sư, ông nổi tiếng là một người tài hoa phóng túng. Trước kế sách của Trần Hưng Đạo dâng vua, và các việc ấp An Sinh đã làm, Trần Nhật Duật không thể không nghĩ về Trần Quốc Tuấn, như nghĩ về Khương Tử Nha đối với nhà Chu. Và ông khâm phục, không những tài năng mà cả về đức độ của Quốc Tuấn. Từ lâu, ông vẫn nghe thấy những tiếng sầm sì hết ở trong nội tẩm, lại ở trong phủ Chiêu Quốc, rồi loáng thoáng nơi này nơi khác. Rằng phải coi chừng Quốc Tuấn, phải sẻn bớt quyền lực của Quốc Tuấn. Nếu không, con người mưu lược như thần, và có tài điều binh khiển tướng chẳng thua gì Tôn-Ngô, Hàn Tín ấy, chỉ cần ông ta phảy tay một cái là cả triều đình nghiêng ngả. Những lời dị nghị ấy vốn đã không lọt tai Nhật Duật thì nay lại càng chứng tỏ, tấm lòng của Quốc Tuấn đối với non sông đất nước, đối với vương triều tỏ rạng như sao Khuê, như ngọc quí, không một tì vết. Việc ông đi lại thăm viếng hay biếu tặng Hưng Đạo, là tự đáy lòng ông yêu kính người anh họ, chứ không phải như người ta nói là để thăm thú dò tìm, là để lấy lòng. Chắc điều đó, một con người sáng suốt như Quốc Tuấn không thể không biết.
Về phần Quốc Tuấn, việc hai vua đến tận thái ấp của ông để bàn bạc những việc quốc gia trọng đại. Điều đó khiến ông biết ơn, song cũng làm ông áy náy. Tuy ông là phận bề trên cả hai vua. Vua cha, với ông là chỗ anh em thúc bá, còn vua con lại là con rể ông, là cháu gọi bằng bác. Tuy vậy, đạo quân thần ông vẫn tôn thờ hết dạ. Tại sao nhà vua không cho gọi ông về triều, hoặc điều ông đến một nơi nào khác, mà thân xuống tận đây? Phải chăng lòng cha con Thánh tôn vẫn còn vương vấn tị hiềm, nên lúc nào cũng muốn làm đẹp lòng ông. Ôi, ta làm sao giãi bầy được gan ruột ra với mọi người. Rằng lúc này đừng có nghĩ suy tạp loạn. Hãy hướng tâm thức, trí lực vào việc tìm mưu hay, kế lạ để ngăn giặc. Họa chiến tranh sắp ụp xuống đầu cả một dân tộc, đó là nỗi lo lớn nhất mà ta hằng đau đáu ngẫm suy.
Trong lúc mọi người đang im lặng suy tư thì phu nhân Quốc Tuấn ló vào - Bà chính là Thiên Thành công chúa - người đã gá nghĩa cùng Quốc Tuấn hơn ba chục năm nay. Bà tuy đã ngoài năm chục tuổi, tóc đã điểm sương. Da loáng thoáng có vảy đồi mồi, nhưng gương mặt bà vẫn toát lên vẻ tươi mát. Nhất là khi bà hé môi cười, hai hàm răng trắng đều và nhỏ tắp. Ai cũng nghĩ tới đám cưới bà hơn ba chục năm trước, đã làm chấn động cả kinh thành. Bà vào mời mọi người dùng bữa. Lấp ló sau lưng bà là An Tư công chúa. Nàng trở về ấp An Sinh vẫn bằng lâu thuyền lúc ra đi.
Trước khi vào bữa, Thánh tôn gấp cuốn “Phú quốc cường binh” lại, nhìn thẳng vào Trần Hưng Đạo, ông thong dong nói:
- Tất cả những điều nằm trong kế sách của vương huynh, phải trở thành quốc sách của nhà nước Đại Việt - Vừa nói Thánh tôn vừa ngoảnh mặt về phía Nhân tôn. Đưa tập sách cho nhà vua và tiếp - Quan gia xem xong, cần tu chính gì thêm, thì trình với quốc trượng. Rồi đưa cho nội thị sảnh tuyên cáo cho thần dân đều biết. Và ban thêm một đạo sắc dẫn dụ cho mọi người hiểu cặn kẽ, để còn làm. Kẻ nào chống lại, khép vào tội bạn nghịch mà xử.
( Quốc trượng: bố vợ vua. Nội thị sảnh: theo quan chức nhà Trần, Nội thị sảnh có các chức nội thị, thiên chương các học sĩ, giữ việc hầu vua và tuyên chế lệnh. Bạn nghịch: làm phản.)
Dừng giây lát, Thánh tôn nói thêm:
- Mai đây vào cuộc chiến, sức người, sức của phải thâu nạp nhiều lắm. Hiện nay trong dân nhiều nhà giàu có, họ thèm khát có một chức vị gì đó của triều đình, và họ sẵn sàng đánh đổi một phần sản nghiệp. Vậy từ nay, triều đình ủy thác cho vương huynh có toàn quyền được phong các tước từ Minh tự trở xuống cho những người có của, để lấy tiền xung vào công quỹ nhà nước, không cần phải hỏi về triều nữa. Ngoại trừ có tước hầu thì phong trước, tâu sau.
( Quan tước thời xưa theo phẩm trật như sau: Vương - Công - Hầu- Bá - Tử - Nam.)
Quốc Tuấn hết sức cảm kích về tấm lòng ưu hậu của Thánh tôn, nhưng trong cuộc đời, ông không quen sử dụng đặc quyền, cho nên dù cho phép, ông cũng không làm. Duy nhất có một lần ông phong cho một nhà phú hộ, vì họ dám bỏ ra một ngàn phương thóc để mua chức lang tướng, trong khi ông lại rất cần gạo nuôi quân. Bởi vậy ông đã phong cho họ, nhưng cũng chỉ là chức “Giả lang tướng”. Tức là ông chỉ cho làm lang tướng giả, chứ không cho làm lang tướng thật. Tấm gương cao khiết ấy, có thể soi thấu muôn đời sau.
Đêm, hai vua xuống thuyền về lại Thăng Long. Nhân tôn nắm lấy tay Trần Hưng Đạo, nói với giọng trang nghiêm, kính cẩn:
- Quốc phụ phải giữ gìn tấm thân muôn quí để dùng cho đại cuộc. Cả nước trông vào quốc phụ!
Trần Hưng Đạo cảm kích dặn Nhân tôn:
- Ta xem phụ hoàng con, tâm thật chưa vững. Tâm có vững mới dám xông vào cuộc. Hốt-tất-liệt sẽ cử đại binh sang tàn phá nước ta. Nếu người giữ trọng trách quốc gia không vững tin ở mình, ta e khó đấy. Con hãy liệu lời khuyên cho phụ hoàng vững dạ. Còn ta, sẽ lo xoay chuyển thế quân, để thượng hoàng tin ở lực mình. Ngập ngừng giây lát, Trần Hưng Đạo nói thêm - Nay mai nếu ta không về được, sẽ cử người về Thăng Long, quan gia thu xếp với An Tư công chúa cho ta xin con Yến Ly, để còn dạy dỗ vào việc quân - Rồi ông dẫn Nhân tôn xuống thuyền. Vào tận khoang trong, Trần Hưng Đạo nắm chặt hai tay Thánh tôn. Ánh nến lung linh soi tỏ hai khuôn mặt kiên nghị thánh thiện, cùng hai cặp mắt giao nhau, như đang tỏa sáng soi khắp khoang thuyền. Giọng run run, ông nói với Thánh tôn: “Em hiểu cho lòng ta. Phải lấy nước làm trọng. Sự mất còn là ở đấy”. Xúc động quá, vì lần đầu tiên nói ra được nỗi uẩn ức trong lòng, vương đã đề rơi mấy giọt lệ. Và cũng lần đầu tiên, từ khi ý thức được tình anh em, Thánh tôn nhận được những lời nói chân tình đến nhỏ máu, và điều đó làm ông như có gì ân hận, như hối hận, nước mắt tự nhiên trào ra. ông ôm ghì lấy Quốc Tuấn: “Thế nước có đứng được hay không là nhờ ở anh đó!”.
Hai vĩ nhân chia tay nhau trong niềm xúc động chân thành. Những giọt lệ họ nhỏ ra, để khóc cho một quá khứ đắng cay và lầm lỗi của các bậc cha anh. Nước sông Lục Đầu lóc róc vỗ bên mạn thuyền như ngàn vạn tiếng reo vui, như một lời chứng thiêng liêng cho cuộc hóa giải oan cừu, để các vĩ nhân đi vào lịch sử như những khối kim cương trong suốt.

CHƯƠNG 11 :

Bố-già-la cầm đầu đoàn cống sứ Champa một trăm người tới Thăng Long. Họ đem voi trắng, vải trắng, trầm hương cùng nhiều đồ quí, lạ đến dâng cùng với thông điệp xin binh cứu viện thật là khẩn thiết của vua Chiêm Indravarman V. Ngoài thông điệp Bố-già-la còn nói rất nhiều về công cuộc phòng thủ của quân Chiêm, kể cả việc đắp thành cố thủ chống giặc từ ngoài bãi biển Thị-nại. Lại cũng cho biết vua Chiêm tuổi cao sức yếu, nên mọi trọng trách quốc gia đều trao cho thái tử. Thái tử Harijít tuy còn ít tuổi, nhưng có tài thao lược. Đích thân thái tử nắm trọn quyền chỉ huy phòng thủ, cũng như kình chống với quân Nguyên. Chính thái tử đã ra lệnh bắt và tống giam hai đoàn thuyền nhà Nguyên, cố tình đi vào đất Chiêm do thám. Họ nói thác là đi Tiêm-la, Chân-lạp bị lạc đường. Việc đó trở nên căng thẳng, và chiến tranh là điều không thể tránh.
Trần Quang Khải đã nghĩ tới việc giúp họ, cũng có nghĩa là tự giúp mình. Ngặt vì thượng hoàng và nhà vua đi kinh lý chưa về, nên mới chỉ nhận lời và nói với Bố-già-la nên chờ ít bữa.
Nghe Quang Khải nói, viên chánh sứ rập đầu tâu:
- Nước chúng tôi từ trước tới nay vẫn một lòng thờ thượng quốc, việc tiến cống không bao giờ bê trễ. Nay nước chúng tôi đang bị bọn nhà Nguyên đe dọa xâm lăng. Họa Thát-đát tràn vào chỉ trong sớm tối. Nếu nước chúng tôi bị mất, thì giặc Mông-thát sẽ kẹp quí quốc giữa hai gọng kìm. Thăng Long sớm muộn cũng trở thành cung thất của Trấn nam vương Thoát-hoan, và của An Nam sứ đô nguyên súy Bột-nhan- thiết-mộc-nhi. Cúi xin đại vương xét tình mà khẩn cấp cứu cho. Việc chống giặc còn cần kíp hơn việc cứu hỏa, nếu đại vương chậm ra quân một ngày, là nguy họa đối với nước chúng tôi sớm thêm một ngày. Mà có giúp nhau, thì giúp lúc giặc còn ở xa mới tiện cho việc sắp xếp binh lực. Vả lại, các vị tướng lĩnh cùng binh sĩ quí quốc, cũng phải có thời gian làm quen với địa hình nước chúng tôi, thì mới có kế sách cùng nhau đánh giặc. Còn như khi giặc đã vào đất chúng tôi rồi, quí quốc mới cử binh sang, thì ôi thôi vua chúng tôi hoặc đã bị bắt, hoặc phải ra hàng. Lúc ấy, không những đoàn quân cứu viện đó sẽ không có ngày về, mà ngay cả kinh thành Thăng Long đây dễ gì giữ được. Trái lại, nếu giúp nhau lúc này, chúng tôi giữ yên được bờ cõi, kíp khi quân kia có tràn vào quí quốc thì nước chúng tôi đấy, kho người, kho của, quân thủy, quân bộ xin đặt dưới quyển thống lĩnh của quí quốc. Nếu sai xin trời tru đất diệt.
Trước lời lẽ thiết tha của Bố-già-la, không những Trần Quang Khải, mà cả triều đình đều xúc động. Ai cũng khen Bố-già-la là tôi trung kiệt hiệt của nước Chiêm Thành. Đi sứ không làm nhục mệnh vua. Xin mà không hạ thấp mình, nói năng phải lẽ, lý tình trọn vẹn mà đanh thép, thật chẳng thua kém gì những tay thuyết khách kỳ tài đời Chiến quốc như Tô Tần, Trương Nghi. Các đại thần nhất đán khuyên quan tướng quốc nên sớm quyết, kẻo lỡ việc lớn quốc gia.
Thật ra, không phải Trần Quang Khải không thấy hết sự trọng yếu, và lợi ích thiết thân của việc đem quân giúp Chàm. Tin tức ông nhận được, từ sau khi ta cự tuyệt việc mượn đường, mượn quân, mượn lương của Đại Việt đánh Champa, Hốt-tất-liệt đã lớn tiếng thét giữa triều đình: “Ta sẽ bắt cha con Nhật Huyên đem về Yên Kinh trị tội”. Cho nên, nếu sứ đoàn Chiêm quốc lần này không khởi xướng việc xin viện binh, ông cũng sẽ gợi ý. Và nếu như thượng hoàng cho phép, ông sẽ thân chinh giúp Chàm.
Nhưng hiện thời, tình thế trở nên cấp bách, trong khi vẫn còn đủ thì giờ và cơ hội cứu vãn, nên ông quyết định:
- Sứ giả không phải nhiều lời. Không phải dạy khôn chúng ta. Đại Việt với Champa quan hệ mật thiết với nhau như môi với răng. Hiện thời quân Nguyên chưa kéo qua mặt bộ vào Champa được, là bởi Đại Việt nhất quyết chống lại việc nhà Nguyên đánh Champa. Nay mai, bọn chúng đánh Champa, cũng tức là tạo cơ hội đánh Đại Việt. Cứu Champa đây không phải là lần đầu. Nhưng người Champa các ông hay tráo trở. Vậy trước khi ta xuất chinh, phải có làm tờ cam kết.
- Dạ, bẩm đại vương, chúng tôi xin chấp thuận mọi điều ước do quí quốc đề ra. Bố-già-la nói, và dường như ông ta rất sợ bên Đại Việt đổi ý.
- Chúng tôi không ép quí quốc. Nhưng sự giúp đỡ là phải có đi có lại. Tức là chúng ta phải tựa vào nhau làm thế ỷ giốc, thời kẻ kia phải sợ. Nay chúng tôi xin đưa con em Đại Việt sang giúp quí quốc chống giặc. Chỉ xin giúp lại nhau khi cần. Chúng tôi không đòi hỏi đất đai hay của cải gì của Champa. Chỉ cần sự thỏa thuận giữa hai triều đình, trong một văn bản khế ước. Trần Quang Khải ngừng lời, sau khi ông đã coi kỹ ánh mắt và những cử chỉ bày tỏ của Bố-già-la, lại nói:
- Ta lưu ý ông chánh sứ, ước thúc giữa hai nước sẽ được thảo và ký ngay hôm nay. Vậy, ông chánh sứ phải lo liệu các sứ đoàn sớm trở lại Champa, báo tin trước cho quốc vương yên tâm.
Viên chánh sứ vái Trần Quang Khải hai vái:
- Đội ơn đại vương đã ra tay cứu giúp chúng tôi. Nhưng chúng tôi chưa thể ra về mà chưa biết quí quốc sẽ giúp bao nhiêu quân. Và bao giờ thì cất quân. Xin đại vương cho chúng tôi theo chân quân Đại Việt trở về, lũ chúng tôi sẽ là người dẫn đạo. Thủy bộ chúng tôi đều thông tỏ cả.
Trần Quang Khải cười thầm, viên sứ thần này quả là một tay đáo để. Ông nói:
- Binh quí thần tốc. Chắc ông chánh sứ biết điều đó. Khi chúng tôi đã nhận lời, là chúng tôi phải đi thật nhanh. Còn đi lúc nào, hoặc số quân chúng tôi đưa sang bao nhiêu thì xin ông chánh sứ cảm thông: cơ mật là sự sống còn của việc binh. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ nói riêng với ông những điều cần thiết về lương thảo, về chiến cụ để ông cử người về trước lo liệu, một số các ông sẽ ở lại đi với quân chúng tôi về Chiêm.
Viên chánh sứ sung sướng quá, hét lên giữa triều đình: “Quốc vương Đại Việt thiên tuế!”. Rồi ông khóc ròng như một đứa trẻ.
Tất cả những việc trên xảy ra trong mấy ngày qua, diễn lại trong óc Trần Quang Khải, dường như mới chỉ vừa trước khi thượng hoàng và nhà vua về có một lúc. Tướng quốc thái úy tường trình lại các việc trước hai vua. Những điều ông đã làm, và những việc còn đang tiếp.
Hai vua đều chấp thuận các việc giám quốc thái úy đã quyết.Và cho đó là sáng suốt, kịp thời. Hai vua cũng cho ông biết tỉ mỉ về kế sách “Phú quốc cường binh” của Hưng Đạo vương. Và hầu như những điều Hưng Đạo khởi xuất, ông đã có làm thử và thu được những thành tựu đáng kể trong vùng ấp An Sinh, ấp Tịnh Bang. Cho nên, việc này phải hoạch định thành một chính sách của triều đình. Rồi ban bố cho cả nước cùng theo.
Trần Quang Khải xin khất việc xem xét sách lược “Phú quốc cường binh” lại ít ngày nữa. Và ông xin được phép điều động binh nhung, để trong vòng ba ngày tới sẽ lên đường.
Hai vua mời Trần Đạo Tái vào cung Thánh từ. Thái úy Trần Quang Khải cũng tới dự.
Mở đầu, Nhân tôn nói:
- Việc giúp binh cho Champa là cần lắm. May mà họ hỏi, nếu không ta cũng phải thương nghị để đưa quân sang. Cái chính là cản mặt nam, không cho Hốt-tất-liệt lập được hai thế gọng kìm. Việc này, lẽ ra thượng hoàng có nhà thì sẽ điều quân túc vệ, nhưng thúc phụ giữ ý, đã cho điều quân bản bộ, và cử chú Đạo Tái làm tướng xuất chinh. Trẫm chỉ băn khoăn, quân ta sang đó gặp thủy đánh thủy, gặp bộ đánh bộ, mà chú Đạo Tái lại chưa quen việc đánh thủy lắm. Chẳng hay việc ấy nên như thế nào?
Trần Đạo Tái thưa:
- Tâu bệ hạ, thần không phải là tướng chuyên đánh thủy. Nhưng phép làm tướng, từ thế thủ, thế công, đánh thành, diệt viện, phục binh, cướp lương, đánh thủy, đánh hỏa... thảy đều phải biết. Thần tuy bất tài, nhưng nghề đánh thủy, chắc là không thể kém bọn lính thảo nguyên và sa mạc của lũ Mông-Thát. Ngay cả đám quân tân phụ miền nam Trung Quốc, cũng không phải là quân tinh thông về sông nước.
Thượng hoàng Trần Thánh tôn nắm lấy tay Trần Đạo Tái nói:
- Ta biết cháu có tài thơ văn nổi tiếng cả kinh thành. Nếu không vì việc nước thì sao thi nhân phải ra trận. Cháu đi lần này muôn sự khó. Chiêm Thành là một nước nhỏ. Quân tinh nhuệ, nhưng sức chiến đấu không bền. Thắng kiêu, bại nản. Ta nghe nói, thái tử Chế-mân là một người có bầu nhiệt huyết. Lúc nào cũng sôi sục muốn uống máu ăn gan kẻ thù. Điều ấy thì tốt, nhưng dễ nản, nếu như tướng địch là một tay đa mưu túc trí, vị tất hoàng tử đã kiên định được. Vậy cháu phải giúp thái tử nhận ra được chỗ yếu của mình, chớ có chỉ nhìn thấy chỗ yếu của địch, thì sự bại vong là điều không thể tránh.
Cha con Trần Quang Khải bái biệt hai vua ra khỏi kinh thành lúc mờ mờ tối. Hai người hóa trang làm hai khách thương với một tốp lính túc vệ, cải trang như dân thường. Thăng Long vẫn bình yên như không có gì xảy ra. Việc điều binh giúp Chiêm vẫn yên lặng như tờ. Ngay các đại thần, các quan thị vệ, và cả quan đại an phủ sứ của kinh sư cũng không ai hay biết gì cả. Vì vậy, tay chân của Hốt-tất-liệt mà đám Sài Thung gài lại, cũng như đui như điếc hết. Riêng đoàn cống sứ Chiêm Thành đã dời khỏi Thăng Long từ ba ngày trước đó. Và viên chánh sứ Bố-già-la được lệnh: Khi tới cửa biển Thần Phù thì một nửa cứ đi thẳng về Chiêm, một nửa còn lại ghé vào bờ chờ binh Đại Việt.
Khi cha con Trần Quang Khải tới cửa Thần Phù vào khoảng giờ tuất ngày hôm sau. Một vạn quân điều động ngay tại vùng cửa Thần Phù( Là một cửa biển lớn thuộc đất Ninh Bình, còn có tên là cửa Đại. Cửa này ngày nay đã bị bồi lấp. ), và một phần từ Thiên Trường ra đã tề tựu đầy đủ. Chiến thuyền san sát như lá tre. Các thuyền lấp lánh những ngọn đèn dầu le lói, nom xa như một bờ sao dầy đặc của dải ngân hà vào những đêm tối trời.
Thấy báo có thái úy tướng quốc đến, viên đô đốc thân lên bờ cung nghinh. Đô đốc dẫn thái úy và thượng tướng đến chỗ chu sư. Nghe có tiếng động rậm rịch ở phía ngoài, Trần Hưng Đạo bèn sửa lại vuông khăn lượt, rồi bước ra khỏi lâu thuyền. Đúng lúc cha con Trần Quang Khải từ phía mũi thuyền đi vào, chợt nhìn thấy Trần Hưng Đạo lừng lững đi ra. Quang Khải sững người lại không kịp cả chào hỏi, trong khi ấy Hưng Đạo vừa sá xong một sá đã lên tiếng trước:
- Ta đón thái úy và vương diệt ở đây từ tối hôm qua.
Trần Quang Khải cúi chào, còn Trần Đạo Tái thì phủ phục xuống vái hai vái. Hưng Đạo đỡ Đạo Tái dậy rồi anh em bác cháu đưa nhau vào khoang thuyền. Trần Quang Khải vẫn chưa hết kinh ngạc. Ông cho Hưng Đạo là người xét đoán công việc như thần. Việc điều binh cũng như địa điểm xuất quân, ông không hề hé lộ với ai, ngoại trừ đức vua, mà Trần Hưng Đạo rõ ràng không ghé Thăng Long. Vậy tại sao ông biết được kế của ta, không những thế, ông còn đến nơi xuất phát trước ta.
Như để giải tỏa điều Trần Quang Khải băn khoăn, Hưng Đạo nói:
- Hôm trước ở ấp An Sinh, nghe hoàng thượng bố cáo, tướng quốc sẽ xuất quân bản bộ và cử đích trưởng tử làm thượng tướng, thống lĩnh ba quân. Vậy nên ta liệu định:
- Một là tướng quốc không muốn động tới binh lực của triều đình. Vì như vậy sẽ sa vào bàn cãi lôi thôi.
- Hai là tướng quốc muốn giấu nhẹm ý đồ cứu viện Chiêm Thành, để bưng tai bịt mắt nhà Nguyên. Như thế thì không thể điều binh ở Thăng Long được.
- Ba là đã không điều binh ở Thăng Long, thì phải điều quân bản bộ ở Thiên Trường. Mà hải đạo xuất phát thuận lợi nhất trong vùng này chỉ có cửa Thần Phù.
Với ba điều dự liệu trên, nên ta tới thẳng đây. Vẫn nghĩ rằng đêm nay xuất binh nên phải tới từ đêm qua, để có thể còn kịp chia tay vương điệt, và cũng có đôi điều nghĩ thấy về người Champa hoặc người Thát-đát, nên muốn truyền dặn lại cho cháu. Ai ngờ may mắn lại được gặp cả thái sư. Vậy thời, sự có mặt của ta trở nên thừa chăng?
Quang Khải nắm tay Quốc Tuấn cùng đi vào lâu thuyền, và trong lòng ông rộn lên những nghĩ suy từ lâu vẫn giằng xé. Kể cả người trong nước lẫn trong hoàng tộc, hoàng gia, thường cho rằng cầm đầu hai thế lực kình chống ngấm ngầm giữa hai dòng trưởng và thứ, là do ông và Trần Quốc Tuấn. Đúng là người ta nói rát về các âm mưu thôn tính của Quốc Tuấn, và thế lực to lớn cũng như tài cầm quân của ông. Trần Quang Khải đã tung cả bộ máy đi dò xét, kể cả việc bố trí binh lực, phòng khi có biến. Song đó chỉ là những việc người đời suy diễn rồi gán cho Quốc Tuấn, chứ thực tình Quang Khải chưa nhận thấy một biểu hiện khuynh loát nào, dù là rất nhỏ. Riêng có một điều Quang Khải thấy, và có phần nào lo ngại, rằng Quốc Tuấn lúc nào cũng ráo riết luyện đám tinh binh. Xong lại tha cho về và đến lượt đám dân binh được lấy lên luyện cho tới khi thành tinh binh. Cứ cái lối thay phiên nhau ấy, lúc nào Quốc Tuấn cũng có trong tay một đội tinh binh cực lớn. Và giờ đây, nếu huy động, thì hầu như hết thảy dân binh trong thái ấp An Sinh của Quốc Tuấn, đã trở thành tinh binh. Nhất là trong các chủ trương về việc binh, Quốc Tuấn thường nói: “Quân cần tinh chứ không cần nhiều”. Bây giờ nghĩ lại, Quang Khải thấy trong lòng có một cái gì nhen lên, như là sự hối hận. Rõ ràng là anh ấy vất vả, khi các vương hầu khác nhàn rỗi. Nhưng bây giờ anh ấy đã có sẵn trong tay một đội binh lớn, tinh nhuệ, chứ không phải rèn dạy những bước sơ đẳng của người lính. Đã đến lúc anh ấy rảnh tay, dạy cho tướng lĩnh và binh sĩ dưới quyền về binh pháp. Ta đọc sách “Đồ bát quái cửu cung”( “Đồ bát quái cửu cung” còn có tên khác là “Vạn kiếp tông bí truyền thư”. Sách này nay đã thất truyền. Chỉ còn một đoạn tựa của Trần Khánh Dư do Lê Văn Hưu chép trong Đại Việt sử ký toàn thư. ) của Quốc Tuấn thấy anh ấy hơn cả Tôn - Ngô. Vì rằng Tôn - Ngô coi binh sĩ như một lũ ngu khờ. Mọi sự đều do người tướng quyết cả. Đằng này, Hưng Đạo sử dụng binh sĩ như những con người, và cho họ học cả binh pháp, thấy được cả việc lớn của người làm tướng, và thấy cả bổn phận của người lính phải làm gì. Đến lúc này Quang Khải mới thấy ngay cả điều lo ngại trước đây về Quốc Tuấn, nay lại là việc đáng mừng. Nếu vương hầu nào cũng làm như Quốc Tuấn, thì dân đều được no ấm, mà nước thì đủ binh mạnh, lo gì giặc dữ ngoại xâm. Gạt bỏ mọi điều suy nghĩ xằng bậy, và ghép gán, hỗn tạp của người đời, tự đáy lòng mình, Trần Quang Khải thừa nhận: Quốc Tuấn là một chính nhân quân tử, là một hiền tài, một bậc nhân tướng, một bậc lương tướng, một con người nhìn xa thấy rộng - quả anh ấy hơn ta nhiều lắm. Nước muốn đứng được, không thể không dựa vào con người này.
Vào trong lâu thuyền, trà nô vừa dâng xong một tuần, Quang Khải cho lui. Ông đi thẳng vào việc:
- Anh Quốc Tuấn, hiện tình đất nước cực kỳ nguy cấp như anh đã biết. Anh em mình không nên thủ lễ nữa. Trước đây bọn tôi có gì không phải, xin anh độ lượng bỏ qua. Số binh đưa sang Chiêm, tôi định cho chi viện bốn quân. Cháu Đạo Tái được cử thay tôi làm thượng tướng.
Cho dù đã thuộc tất cả từng chiếc sẹo nhỏ trên gương mặt “thằng bé”, ấy vậy mà khi nghe Trần Quang Khải nói, ông lại nhìn ngó chằm chằm Trần Đạo Tái, như lần đầu nhìn thấy cháu.
Với gương mặt dường như bình thản, nhưng trong giọng nói, lại đượm vẻ xúc động, Trần Quốc Tuấn đáp:
- Một vạn quân không phải là nhiều. Nhưng chiến trường Champa hẹp, cũng không cần nhiều hơn thế. Song ít hơn nữa, lại không vỗ về được cha con quốc vương Champa, và cả đám dân chúng đang cực kỳ hoang mang.
Đột nhiên Quốc Tuấn quay ra hỏi Trần Quang Khải:
- Chú định bao giờ cho khởi binh?
- Quan thái bốc bói được giờ tí. Tôi cũng cho đó là giờ tốt, vì nó là cái giờ thanh khiết nhất của một ngày.
- Chú liệu định thế trận sẽ diễn ra ở Chiêm là như thế nào? Và bao lâu nữa thì quân Nguyên tới Chiêm?
- Số quân dồn về Kinh Hồ định đánh ta. Nay Hốt-tất-liệt tính chuyện ăn chắc, đánh Chiêm trước, rồi sau đó đánh ta từ hai mặt bắc và nam. Trù liệu đánh Chiêm, chắc không thể dưới năm vạn quân. Hiện thời số quân đánh Chiêm đã lên đường. Chính người Chiêm cũng biết việc ấy, nên họ ráo riết xây dựng thành lũy cản giặc, một mặt sang ta xin viện binh.
- Người Chiêm được thái tử Chế-mân truyền cho lòng căm giận giặc dữ, cho nên cả nước Chiêm Thành đang hừng hực như một bể dầu sôi, chỉ cần ném vào đó một tia lửa nhỏ, sẽ trở thành biển lửa, Quốc Tuấn nói với vẻ trầm buồn. Một lát ông quay lại hỏi Đạo Tái:
- Thế cháu định ở bên đó bao lâu?
- Trình bá phụ. Việc binh không biết đâu mà hẹn trước. Nhưng ít ra cũng phải giúp người ta đứng vững thì mình mới về được.
- Cháu nói có lý. Ý chú Chiêu Minh thế nào?
- Theo tôi, việc binh quí ở thắng chứ không quí ở lâu. Nếu Đạo Tái giúp họ tạo nổi cái thế tự đứng được thì nên rút ngay.
- Đúng như vậy. Ta nghe Hốt-tất-liệt cử nguyên soái Toa-đô thống lĩnh đại quân đánh vào Chiêm Thành. Nếu bình được Chiêm Thành, thì đạo quân của y cùng với quân Chiêm sẽ đánh tập hậu ta ở mặt nam, còn Thoát-hoan sẽ thống lĩnh đại binh đánh vào mặt bắc. Kỳ này, ta xem Toa-đô không đại thắng Chiêm Thành được, là bởi tuy y có dạn dày bách chiến nhưng y hết sức coi thường địch. Trong khi đó ở Chiêm Thành, cả nước một lòng. Chỉ có điều ta hơi ngại, người Chiêm thiếu tính ngoan cường. Nếu thua trận đầu họ dễ hoảng sợ. Cho nên vương điệt sang Chiêm, điều quan trọng chưa phải trực tiếp đánh, mà chỉ nên thanh viện giúp kế và bình ổn nhân tâm. Nói với người Chiêm, chớ có mắc mưu Toa-đô. Nếu y quyết dốc toàn lực, đánh quỵ đối phương ngay từ trận đầu, thì phải phân tán ra đánh y ở nhiều hướng. Làm cho y mất ăn mất ngủ. Việc đánh Toa-đô phải xuất quỷ nhập thần. Khi y dàn trận, nên tránh. Khi y rút, chặn hậu mà đánh. Nên nhớ, lấy sức mạnh của ta, đánh vào chỗ yếu của địch bao giờ cũng thắng. Người Chiêm Thành giỏi bơi lội, giỏi leo trèo, chỉ nên dùng những đội binh nhỏ mà đánh chớp nhoáng vào lúc giặc bất ngờ nhất. Và phải biết lợi dụng thời tiết nóng ẩm phương nam mà đánh giặc. Nếu như cứ đêm đêm quấy rối, bắn hỏa pháo vào trại giặc, reo hò, chiêng trống, rồi đốt lửa ngoài thành, làm cho quân kia ăn không ngon, ngủ không yên, khiến chúng phải thành cao hào sâu mà thế thủ. Khi chúng đã thế thủ thì tìm triệt nguồn nước, triệt đường tiếp lương. Nói đến đây Hưng Đạo ngừng lời, ông để ý nhìn hai cha con Quang Khải. Trong đáy mắt Đạo Tái ánh lên như là một sự khẩn cầu, còn Chiêu Minh vẫn chăm chú lắng nghe. Quốc Tuấn lại nói:
- Nếu Toa-đô không thắng mà Chiêm Thành cũng không thua, ấy là lúc vương điệt nên rút quân về cùng với quân của Tĩnh Quốc đại vương ở Nghệ An, để hợp trấn mặt nam. Ta ngờ rằng nếu con không ra sớm, thì Toa-đô sẽ ra trước con.
Hưng Đạo nói với ánh mắt quả quyết, khiến Trần Đạo Tái và Trần Quang Khải đều giật mình - Ý chú Chiêu Minh thế nào? ông quay ra hỏi Trần Quang Khải.
- Hẳn rằng diễn tiến chiến cuộc sẽ đúng như anh lượng định. Chiêu Minh vương đáp lời, ông nhìn con trai, dặn thêm:
- Con đi chuyến này là muôn khó, muôn khổ. Giúp cho Chiêm Thành không thua tức là thắng. Lại kìm giữ được chân quân Nguyên ở đấy càng lâu, thì ở nhà cha và bá phụ càng có thời cơ chỉnh bị quân lương mà kình chống với giặc. Con nên nhớ, thế nước mình hiện nay đứng được là việc thế gian hy hữu.
Trần Đạo Tái bùi ngùi. Hưng Đạo nắm lấy tay cháu nói:
- Phụ thân cháu nói vậy, để cho cháu kiên quyết và thận trọng trong việc binh. Riêng bác nói để cháu yên tâm: khi nào đầu bác và đầu phụ thân cháu còn chưa rơi, thì lũ Mông - Thát chớ có hòng ngự trị được mảnh đất từng thấm máu cha ông ta. Ngừng một lát, Hưng Đạo lại ân cần dặn:
- Con nên nhớ kỹ một điều. Quân Mông - Thát cực kỳ tàn bạo. Chúng thường dùng chính sách đốt sạch, giết sạch làm cho dân bản xứ điêu linh, khiếp đảm mà phải qui hàng. Nhưng điều đó không ngại bằng, trong hàng tướng lĩnh quân Nguyên, có bọn tay sai người Hán, mưu kế cực kỳ thâm độc, xảo trá. Không những con phải canh chừng, mà còn phải giúp người Chiêm nhận cho ra những mưu ma quỉ kế của bọn vong quốc, cam tâm làm chó săn cho lũ chủ mới này. Tựa như bọn Sài Thung là tên Hán gian đại gian đại ác mà con đã biết.
Sắp đến giờ xuất phát, Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đến úy lạo từng quân một. Trong đoàn viện binh được phiên chế thành bốn quân. Mỗi quân đặt dưới quyền điều khiển của một viên đại tướng. Trần Đạo Tái giữ quyền thượng tướng, thống lĩnh cả bốn quân, được trao ấn và cờ tiết.
( Từ năm Đinh mão (1267) nhà Trần đã định lại quân ngũ như sau: Mỗi Đô có 80 người. Mỗi quân có 30 Đô, tức là 2.400 người.)
Chiến thuyền cũng được phân theo từng quân. Mỗi quân mang một sắc cờ: đỏ, vàng, xanh, đen. Thuyền của thượng tướng mang cờ đuôi nheo đỏ có tua vàng. Đội ngũ thật là uy nghi, trùng điệp.
Trời đầy sao. Trăng hạ huyền mảnh mai như một chiếc vành lược. Trong thôn xóm đã im tiếng chó sủa. Thảng có tiếng gà gáy ở một xóm chài đâu đó lan tỏa trên mặt sông. Giữa lúc mọi người đang náo nức chờ, chỉ còn vài khắc nữa chuyển sang canh, là tới giờ xuất phát. Bỗng có tiếng vó ngựa khua giòn, và một đoàn chừng hơn chục con ngựa ghìm cương đứng ngơ ngác giữa một vùng bát ngát các chiến thuyền.
Dưới ánh trăng mờ đục, người ta nghe thấy một giọng nữ cất vang với vẻ ngạo nghễ, hách dịch:
- Quân đâu! Cho ta hỏi chu sư ở chỗ nào?
Viên đô trưởng tiến lại gần chỗ người con gái quát hỏi. Anh ta dõng dạc nói:
- Tôi phụng mệnh tuần kiểm trên cửa sông này, ai hỏi han việc quân đều phải trình báo theo luật lệ, không được ăn nói hàm hồ.
Lập tức người con gái đáp lại bằng một giọng cười giòn tan:
- Này mấy chú kia. Trời tối om, bọn ta không biết trạm canh ở đâu. Nhưng ta có việc khẩn cấp lắm. Các chú lại đây mà xem hỏa bài, rồi dẫn ta đến ngay chỗ chu sư của thượng tướng. Nàng vừa nói vừa chìa hỏa bài cho viên đô trưởng, và tiếp - Thoắng lên, kẻo lỡ việc là bọn các người sẽ mất đầu đấy!
Viên đô trưởng bật bùi nhùi lấy lửa soi vào tấm hỏa bài, rồi lôi ngay con ngựa trạm của điếm canh gần đó nhảy phắt lên, miệng nói:
- Xin các đại nhân theo tôi. Cấp tốc lên, chỉ còn vài khắc nữa là sang canh.
Quân vào bẩm, Hưng Đạo, Quang Khải, Đạo Tái đều thân ra nghênh tiếp. Bởi ai cũng nghĩ có chế, cáo gì của nhà vua đưa tới. Nhưng dẫn đầu đám kỵ sĩ kia lại là một cô gái. Mọi người đều nhận ra. Trần Đạo Tái nói như reo:
- Hoàng cô An Tư! Sao hoàng cô lại đến vào giờ này?
Dưới ánh đèn lấp lánh, trông công chúa đẹp như một vị tướng của nhà trời. Nàng vận bộ quần áo bằng nhiễu tím thêu những con phượng màu kim tuyến. Lưng thắt một chiếc đai da rái cá có đính mấy viên ngọc lưu ly tỏa sáng. Ngang lưng dắt một thanh đoản kiếm. Chân nàng đi đôi hia màu xanh thêu đôi hạc trắng mỏ đỏ. Đầu đội mũ kim khôi. Mắt đẹp mà dài như mắt phượng. Khuôn mặt trái xoan có lúm đồng tiền. Mũi thẳng, nhỏ, xinh đẹp, hợp với đôi lưỡng quyền, lại được nước da trắng hồng như trứng gà bóc, cặp môi hơi mỏng, mọng đỏ như tô son. Hai hàm răng nhỏ đều tăm tắp. Nàng cười như nắng lóa.
Đạo Tái vội đỡ An Tư xuống ngựa. Vừa đặt chân xuống đất, nàng nói luôn:
- May quá! Vẫn còn kịp. Sang canh mới đi chứ? Nàng hỏi dồn dập qua hơi thở.
Đạo Tái ngạc nhiên, không hiểu tại sao An Tư lại biết giờ xuất phát, liền hỏi:
- Sao hoàng cô biết sang canh xuất quân?
- Tại vừa nãy, tên đô trưởng giục ta phải đi nhanh, kẻo còn vài khắc nữa sang canh thì lỡ. Nói xong An Tư nhìn thẳng vào mắt Đạo Tái, có phần như trách móc - Việc binh mà để cho hạ cấp bép xép thế là không được đâu thượng tướng ạ. Bữa trước ta có đọc: “Vạn kiếp tông bí truyền thư” của Hưng Đạo vương huynh, thấy có nói: “Việc binh cần phải kín nhẹm. Người không cần biết thì không được biết”. Nhưng thôi, đấy là việc của những người làm tướng. Ta vội vã đến đây, cốt để chia tay và có món quà quí tặng vương điệt. Dứt lời, nàng vẫy tay một cái, lập tức có một tráng sĩ xách hai chiếc lồng chim, ngoài phủ vải đỏ bước vào. Tráng sĩ ước chừng hai mươi, hai mốt tuổi. Chàng có khuôn mặt trẻ măng, da thịt chắc nịch, các bắp tay bắp chân nổi cuộn lên như được đúc bằng đồng. Nước da nâu săm sắn. Cặp mắt to, đen láy, lông mày lưỡi mác hơi xếch, cằm vuông, miệng rộng, mũi to, thẳng. Nom chàng đẹp như một pho tượng. Từ nơi chàng toát lên vẻ cường tráng, tự tin, mà oai dũng lạ thường. Chàng đặt hai lồng chim xuống trước Trần Đạo Tái, hơi nghiêng mình vái hai vái. Rồi tiến lên mấy bước, trước Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, chàng sụp xuống lễ bốn lễ. Hai vương chưa biết chàng là ai, bèn hất hàm hỏi An Tư:
- Chàng hiệp sĩ này từ đâu tới?
An Tư bước lên thong dong nói:
- Bẩm hai vương, bữa trước em có đi chơi vùng núi Tản Viên, gặp chàng trai này đang làm nghễ bẫy chim. Bỗng An Tư ngừng lời - chuyện hơi dài, liệu hai huynh có đủ thì giờ nghe không đã - Hưng Đạo nhìn Quang Khải - Tướng quốc bèn gật đầu. Nàng lại tiếp - Em mải xem quá không để ý, bỗng con nê thông( Giống ngựa Hồ có sắc lông đen, trắng lẫn lộn trông giống như màu bùn. Đây là nòi ngựa hay và có trí nhớ kỳ lạ) em thường cưỡi đây buộc ở một gốc thông gần đó, hý lên một hồi dài hoảng hốt. Em vội quay lại thì đã thấy một con hổ đang lững thững đi về phía em. Sợ quá, em khuyụ xuống ngất đi. Tỉnh dậy, được biết chính là chàng hiệp sĩ này đã phóng một lưỡi dao trúng mắt con hổ. Nó gầm lên và xông thẳng vào chàng. Vật lộn cho đến cuối cùng chàng giết được hổ. Và vực em về sơn trại. Cha chàng là một người săn voi. Hai cha con thường khi mỗi người mỗi phương rừng cách biệt. Để biết tin nhau, chàng đã nuôi và dạy những con chim bồ câu, hằng ngày đưa tin đến cho cha chàng, và đem tin từ chỗ cha chàng về. Có lần, cha chàng bị một đàn voi vây kín các ngả. Ông phải chuyền cành lên tận đỉnh một ngọn cây ở trên chóp núi cheo leo, mà voi không lên được. Nhưng chúng rình phục không cho ông xuống. Chính những cánh chim bồ câu này đã tìm thấy ông già. Và sau khi biết tin, chàng đã đánh lừa được đàn voi đi về phía thung lũng. Nghe chàng nói, trong ngàn dặm, chim bồ câu có thể nhớ đường đi lại. Vì vậy em đem theo cả chàng và những con chim kia cho vương điệt.
Không còn nỗi vui mừng nào hơn thế nữa. Cứ nom gương mặt ba vị tướng kia thì biết. Với Trần Hưng Đạo, từng nếp nhăn bên khóe mắt ông từ từ giãn ra. Toàn khuôn mặt bừng sáng. Ông nắm lấy tay chàng hiệp sĩ lắc mạnh. Trong thâm tâm, ông coi chàng như một người có cánh, một đạo sĩ có chiếc gậy rút đất trong tay. Trần Quang Khải cũng cùng tâm trạng như Quốc Tuấn. Vì rằng, chỉ nhờ vào những con chim kia và “phép lạ” của chàng trai này, tin tức về con ông, về đội quân cứu viện cho Chiêm Thành cùng những gì xảy ra trên đất này và bọn xâm lược Nguyên - Mông, Đạo Tái có thể thông báo về triều, chí ít một tháng đôi ba lần. Chao ôi, ông có đọc ở sách nào đó viết, từ thời Chiến quốc, ở bên Tàu người ta đã biết dùng bồ câu vào việc đưa thư. Song từ đó bẵng đi không thấy nói đến nữa.
- Nhưng làm thế nào để nhận được thư do chim mang từ Chiêm Thành về, nếu không có một ám hiệu gì đó cho nó nhận biết mà đáp xuống. Hỡi chàng hiệp sĩ hào hùng kia! Nếu chàng đã cứu hoàng cô của ta, nay lại muốn cứu cả binh đội của ta, thì chàng phải cho ta biết “pháp thuật” của chàng chứ? Trần Đạo Tái vui vẻ hỏi chàng trai.
Chàng cười hồn nhiên, những chiếc răng của chàng trắng bóng, tỏa ra một thứ ánh sáng cùng với luồng sáng nơi tròng mắt chàng, khiến ta cảm như đang đứng trước một thiên thần. Chàng đưa tay lên sờ vào mang tai, và như bẽn lẽn, chàng nói:
- Có ám hiệu chứ. Dạy cho cô kia biết rồi. Chàng nói và hất hàm về phía An Tư công chúa. Nếu quên - chàng lại nói, về núi Tản Viên hỏi bố tôi ấy. Ông già rành việc nuôi dạy chim và bẫy voi lắm.
Thời ấy rừng già ăn tận tới các triền sông, ăn ra tới cửa biển. Đâu đâu cũng có rừng. Mà hổ, báo, voi, gấu thì nhiều vô kể. Ngay kế cận đất kinh kỳ, hổ cũng thường về. Còn voi đã từng có trong khu rừng trên một hòn đảo lớn giữa hồ Dâm Đàm.
Trần Đạo Tái vỗ vai chàng trai hỏi:
- Chàng có ưng đi với ta không. Đi theo quân, xa ngàn dặm? Mang theo cả những con chim quí của chàng đi.
- Có chứ, chàng trai nhận lời vẻ thản nhiên - Bố tôi nói rằng, bố của cô kia làm vua của đất này. Vua sai là mình phải nghe chứ. Mình theo các ông đi đánh giặc hả? Chàng gặng hỏi.
Trần Đạo Tái gật đầu.
Rõ ràng là chàng trai người dân tộc này chưa biết lễ nghi gì. Nhưng chàng là một người dân với tấm lòng yêu nước hồn nhiên như cây cỏ, khiến các vương đem lòng yêu mến.
Bỗng gà gáy ran. Đâu đó bật lên một hồi trống. Sang canh nền trời hơi sáng. Tại trung quân, tiếng trống đồng thúc lên hối hả rồi im bặt. Đó là hiệu lệnh xuất quân. Trần Đạo Tái nói lời bái biệt thân phụ, bá phụ cùng hoàng cô. Ông vẫy tay chỉ cho chàng hiệp sĩ xuống lâu thuyền.
An Tư đặt chiếc dây cương con ngựa nê thông của mình vào tay hiệp sĩ, và nói:
- Ta tặng chàng con ngựa này, để chàng cỡi trên đường về báo tiệp. Con nê thông không chịu bước xuống thuyền theo hiệp sĩ. An Tư vỗ nhẹ trán nó và ghé tai nói thì thầm điều gì Mắt nó chớp chớp rồi đủng đỉnh bước theo chàng.
Hiệp sĩ cúi đầu chào biết ơn, và đôi mắt chàng nhìn An Từ đau đáu, như một lần nữa ghi trọn dáng hình nàng vào thẳm sâu ký ức.

CHƯƠNG 12 :



”Phú quốc Cường binh sách” của Trần Hưng Đạo dâng hai vua đã được biến thành quốc sách. Tuy một số nhà quyền quý, một số công hầu khanh tướng tỏ ra không hài lòng. Vì họ phải thả bớt nông nô, phải xẻn bớt đất ruộng ra bán chịu cho nông phu. Nhưng đứng trước sự mất còn của non sông đất nước, buộc họ phải chọn lựa. Hoặc là phải bớt đi một phần không đáng kể của cải, tài sản, nhưng quyền uy vẫn không hề giảm sút. Hoặc mất tất cả, và ngay đến bản thân họ cũng phải làm kiếp ngựa trâu cho quân Mông - Thát. Tình thế đất nước, buộc họ phải chấp thuận. Và nữa, triều đình cũng xẻn bớt một phần quốc điền chia cho những người có cha già, mẹ yếu, con thơ phải đi làm việc binh. Lại giành cả phần ruộng đất cho cha mẹ, vợ con những người lính phải bỏ mình ngoài chiến trận trong cuộc chống giặc ngoại xâm. Chính sách ấy ban hành mới được một vụ cấy gặt, xem ra hết thảy trong dân gian đều hồ hởi. Các cụ già đến tám chín mươi tuổi đều nói: “Từ thượng cổ chưa có lệ này. Chưa bao giờ vua lại lo cho dân nhiều đến thê”. Nhà nhà có ruộng. Người người chăm lo cấy cày, vun bón. Lúa tốt chưa từng thấy. Các lộ thượng hạ Hồng, Bắc Giang thượng hạ, Thiên Trường, Nghệ An... đều có sớ về triều tâu nhiều sự lạ. Như kỳ lân, rùa vàng, chim trĩ trắng xuất hiện. Lại lúa trổ một dò hai bông, hạt sai trĩu trịt. Được mùa to. Đúng như Trần Hưng Đạo đã dự liệu: “Nhà nhà bồ lẫm đầy ắp, thóc không còn đủ chỗ chứa”. Kho đụn của nhà nước cũng phải cơi nới hoặc làm thêm. Sẵn thóc, lệnh vua lại ban, mỗi nhà phải nhận năm phương lúa kho về xay giã rồi đồ chín, phơi khô cất giữ cẩn thận làm lương khô, phòng bị khi nước có giặc, tiện quân qua cấp tốc có thức ăn ngay.
Lệnh vua ban khắp nước tiến cử người tài bất kể văn, võ đều được tuyển dụng, sung vào việc quân. Cả nước mở hội thi võ.
Khắp bốn phương, trai tráng đều ra sức luyện rèn, võ, gậy kiếm, cung, đao, trượng, quyền, cước, bơi, lội... Thôi thì không thiếu một môn gì trong thập bát ban võ nghệ, mà đinh tráng không tham gia tập tành, thi tuyển. Rồi nườm nượp các đại hoàng nam, các tiểu hoàng nam, kéo đến cửa các vương, hầu xin được tuyển vào đội tinh binh.
Chỉ trong vòng sáu tháng, lượng quân đã tăng gấp đôi. Thế nước bắt đầu nổi. Trần Nhân tôn xin với vua cha hội các chư tướng, vương hầu cùng bá quan để bàn kế sách đánh giặc giữ nước. Suy đi tính lại, Trần Thánh tôn nói:
- Đúng là thế nước đã nổi. Dân chúng hồ hởi. Binh nhiều, lương sẵn. Nhưng binh cần phải tinh luyện nhiều hơn nữa, phải có đủ tướng tài và kế sách thâm sâu. Lại mới đây, Hốt- tất-liệt hối thúc việc mượn đường, cấp lương, đòi quân... Hạn kỳ sắp mãn, các việc ấy bàn ở Thăng Long e không tiện. Vì tai mắt nhà Nguyên đầy rẫy kinh kỳ, quan gia thử xem nên họp mặt nghị bàn ở đâu thì tiện?
Sau một lúc đắn đo suy nghĩ. Dường như đã có sự tính toán chỉn chu. Vua Nhân tôn nhỏ nhẹ nói:
- Trình phụ hoàng, theo con nên hội ở Bình Than. Vì đây là một vùng sông nước mênh mông, lại có nhiều rừng núi rậm rạp, thủy binh ta ken dầy bốn mặt, quân gian khó mà lọt dược vào do thám. Vả lại, bá phụ con vẫn thường nhắc đây sẽ là vùng chiến trường ác liệt. Nên cho các tướng ra đấy để biết thêm địa hình, và bàn cả kế sách bố trí binh lực luôn thể.
Một sớm mùa đông. Đã qua giờ dần, mặt trời lẽ ra phải lên cao quá ngọn tre. Nhưng sương mù vẫn giăng trắng xóa. Bốn bề mịt mù sương khói. Cách mươi mười lăm bước, chỉ nghe thấy tiếng nói chứ không nhìn thấy mặt nhau. Được nhà vua triệu, các vương, hầu, các đại thần, các tướng đi thủy, đi ngựa nườm nượp kéo về Bình Than từ chiều hôm trước. Cuộc nghị bàn của triều đình trên đất An Sinh thuộc thái ấp của Trần Hưng Đạo, nên vương vừa có phận sự cảnh giới quân gian, bảo vệ xa giá, vừa chu cấp phục dịch cho quan quân. Mãi tới cuối giờ mão mây mù mới tan hết, lộ ra một vùng nước rộng mênh mang. Xa kia, nơi sáu con sông qui đầu hội tụ. Quanh vùng sông nước bao la là rừng. Rừng bạt ngàn từ mép sông, giăng mắc khắp từ thung lũng tới các đỉnh núi diệp trùng. Bầu trời xanh, cao vòi vọi. Một vùng rộng lớn chỉ có trời, nước và rừng xanh. Thiên nhiên vừa vén lên chiếc màn sương khổng lồ, đã thấy thuyền đậu san sát quanh bến Bình Than.
Khắp sáu ngả sông dồn về, liên tiếp các trạm quân thủy, các binh thuyền tuần cảnh oai nghiêm. Các tay cung thủ, dao, kiếm tuốt trần, mắt dõi nhìn cảnh giới từ xa. Trên bộ lại càng nghiêm ngặt. Các ngả đường dồn về Bình Than, trại quân đóng ken dầy. Từng tốp, từng tốp, hết bộ binh lại đến kỵ binh thay nhau từng khắc một, tuần hành rậm rịch, bụi cuốn mù đường. Cả mặt thủy, mặt bộ tưởng đến một cánh chim cũng khó lọt vào Bình Than.
Đây là cuộc hội sư cao cấp, chỉ những người đứng đầu các thái ấp với các tước từ vương, hầu, công, khanh và các quan từ hạng nhất, nhị, tam phẩm cùng các tướng đứng đầu quân ở các lộ, phủ; đứng đầu các quân hổ bôn, cấm vệ, thánh dực... mới được về dự.
Mặt sông cách bờ chừng trăm trượng là bãi đỗ thuyền đông nghịt. Giữa là thuyền ngự. Đó là chiếc thuyền mang hình con rồng khổng lồ, sơn son thếp vàng. Trong các khoang thuyền đều có hàng con tiện chạy quanh, làm cho thông thoáng, có rèm buông với các tua ngữ sắc lấp lánh. Trên thuyền ngự la liệt các tàn, lọng màu vàng, thêu các hình long, ly, qui, phượng. Mắt các con vật thường được đính bằng những viên mã não, đá ngọc phát sáng nhiều màu. Các đồ nghi trượng, đàn bầy oai vệ. Trên đỉnh cột buồm là ngọn cờ lớn thêu hai chữ “Đại Việt” bằng kim tuyến chói vàng. Xung quanh thuyền ngự là thuyền của các vương hầu, tướng lĩnh sơn màu anh vũ hoặc sơn then, có chạm khắc hoặc vẽ các hình phượng múa. Những thuyền áp sát thuyền ngư, là thuyền của các đại vương. Trên mỗi thuyền đều có cắm một lá cờ: Tá Thánh đại vương, Hưng Đạo vương, Chiêu Minh vương, Chiêu Quốc vương, Chiêu Văn vương, Chiêu Đạo vương, Trung Thành Vương, Chiêu Thành vương. . . Kế tiếp là đến các bậc dưới như Nhân Túc vương, Hưng Vũ vương, Hưng Trí vương, Vũ Đạo hầu, Văn Nghĩa hầu, Nghĩa Quốc hầu, Chương Hiên hầu . . . Tiếp đến là công bộ thượng thư, trạng nguyên Nguyễn Hiền; hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu, bảng nhỡn Lê Văn Hưu... Và nữa là các tướng như Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái...
Quân mới dâng được hai tuần trầu, nước, các vương hầu còn đang thăm hỏi nhau và đàm đạo ngoài lề, chờ xong tuần trà nữa thì nhà vua khai diễn nghị hội. Bỗng Nhân tôn trông thấy một chiếc thuyền lớn chở than, gỗ, đúng lúc nước rặc, gió thổi ngược chiều, làm vén cả vạt áo ngắn của người lái thuyền, phơi ra tấm lưng trần trắng mốc, và chiếc nón lá đội đầu cũng xô cụp xuống mặt. Khi người ấy hất chiếc nón lên, nhà vua ngờ ngợ bèn hỏi đám quan thị thần: “Người kia có phải Nhân Huệ vương không?”. Lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo đến cửa Đại Than thì kịp. Đám lính bèn đồng thanh hô to: “Ông lái kia, vua sai đòi nhà ngươi”.
Người lái thuyền vẫn đủng đỉnh chèo và đáp lại: “Ta chỉ là người nghèo buôn bán nuôi thân, có việc gì mà gọi đến “. Quân về tâu lại. Nhà vua nói: “Thế thì đúng là Nhân Huệ vương rồi. Người thường tất phải đến ngay”. Nhân tôn lại sai nội thị đi gọi. Không cưỡng được mệnh, Khánh Dư mặt mũi lem luốc màu than, củi, vận áo vải ngắn, đội nón lá ra mắt hai vua.
Thánh tôn mủi lòng bảo: “Nam nhi cực khổ đến thế là cùng”. Bèn lập tức xuống chiếu tha tội. Lại cho dự bàn việc nước, việc quân. Trông mặt mũi Trần Khánh Dư lúc này, thật đúng là một ông lão bán than chất phác. Nhưng quả thực là một tướng mưu lược. Khánh Dư vốn là con riêng của thượng tướng Trần Phó Duyệt, thực ấp được phong ở vùng Chí Linh. Khi quân Nguyên xâm lược năm Đinh tị (1257), Khánh Dư nhân chỗ sơ hở của giặc, đem quân đánh úp, giặc khiếp đảm. Thượng hoàng (Trần Thánh tôn) khen là người có trí lược, lập làm thiên tử nghĩa nam( Con trai nuôi của vua). Sau đó theo vua đi dẹp loạn người miền núi, thắng to. Thượng hoàng tiếp phong phiêu kỵ đại tướng quân. Đây là tấm lòng ưu ái Thái tôn ban cho, chứ đúng phép nước, chức phiêu kỵ tướng quân, chỉ dành phong cho các hoàng tử có tài cầm quân. Nhưng vì Trần Khánh Dư đã được thiên tử nhận làm nghĩa nam, xét ra không trái luật, nên có mệnh ấy. Rồi từ tước hầu được phong dần mãi lên tử phục thượng vị hầu, quyền chức phán thủ. Lại nhân trong một bữa tiệc mo nang ( Tiệc hóa trang. Uống rượu say, đeo mo nang có vẽ hình các con giống lên mặt nhảy múa, có khi tắt đèn hỗn dâm trong phút chốc. ) Khánh Dư đã tìm cách thông dâm với công chúa Thiên Thụy là vợ của Hưng Vũ vương, con trai cả của Hưng Đạo vương. Việc này gây tai tiếng khắp kinh thành. Lại bấy giờ Hưng Đạo vương binh quyền chất ngất, vua sợ phật ý nên sai trị tội Khánh Dư. Tức là đem Khánh Dư ra đánh chết ở hồ Dâm Đàm. Nhưng lại ngầm dặn đám quân hiệu nới tay, chớ có đánh đau quá để không đến nỗi chết. Khánh Dư tuy không phải tội chết, nhưng bị lột hết quan chức, sản nghiệp bị tịch thu, rồi đuổi về quê quán. Bởi thế, Khánh Dư phải lam lũ, sống bằng nghề đốt than và buôn bán than củi.
Yên vị xong đâu đó, Trần Nhân tôn bèn nói:
- Từ ngày triều đình dụng sách “Phú quốc cường binh” thấy rằng việc binh có nhiều thuận tiện. Dân binh đông đúc mà tinh binh cũng tăng. Số tinh binh hiện có dã tăng gấp đôi so với các năm trước. Theo đó việc lương lại càng sung mãn. Khắp nước, không còn nạn thiếu đói nữa. Bồ lẫm nhà dân, kho đụn nhà nước đều ăm ắp thóc. Đất ruộng từ một vụ, nhiều nơi đã cấy được hai. Lại chăm bón đầy đủ: lúa, ngô, khoai đều tốt bời bời. Bây giờ còn mấy việc lớn, có quan hệ đến sự mất còn của đất nước, cần phải bàn bạc thấu đáo.
Trần Nhân tôn tạm ngừng lời, đưa mắt nhìn khắp xem các vương hầu, các quan, tướng có biểu lộ điều gì khác biệt trên gương mặt không. Một lát, nhà vua tiếp:
- Hốt-tất-liệt liền năm yêu sách Đại Việt ta làm đủ sáu việc như các khanh đã biết. Chúng ta đều khôn khéo chối từ. Trước đây, các việc đó không thỏa mãn, bên Đại đô có đưa thư trách. Lời qua tiếng lại, mọi việc rồi cũng qua đi. Nhưng từ năm Kỷ mão (1279), sau khi đã diệt xong nhà Tống, đặt được nền thống trị ở Trung Nguyên, thì sự việc ngày một thêm gay gắt. Thực tình, Hốt-tất-liệt muốn dùng sức ép bang giao, buộc ta phải nội phụ. Tức là người nước ta phải trở thành quận, huyện của nhà Nguyên.
Các việc gần đây mà Sài Thung và sứ đoàn của y nghênh ngang giữa đất Thăng Long, giữa chốn triều đình của ta một cách ngang ngược, thô bỉ cũng là biểu thị lòng khinh mạn của Hốt-tất-hệt cùng ý đồ thôn tính Đại Việt của y. Chúng ta đã hạ mình, đã nín nhịn hết mức. Không phải vì vua tôi ta không biết đến quốc sỉ, quốc thù. Mà hận vì lực ta còn yếu. Dân ta gần ba chục năm sống trong hòa bình. Nay nghe đến chuyện binh hỏa, nhiều người đâm hãi sợ. Vậy, ta cần có thời gian để khơi gợi lòng dân, khích lệ lòng quân. Nếu chẳng may kẻ kia đem đại binh tràn vào, như cách đây một năm, chắc là lực ta không đủ kình chống với vài chục vạn tinh binh của Hốt-tất-liệt. Nhưng nay, thế nước đã nổi, liệu ta có thể một lần nữa cự tuyệt yêu sách của nhà Nguyên, đòi ta phải:
- Một là, cho mượn đường bộ để quân Nguyên qua đánh Chiêm Thành.
- Hai là, ta phải góp thêm binh cùng với quân Nguyên thôn tính Chiêm Thành.
- Ba là, khi quân Nguyên qua đất Đại Việt, ta phải lo lương, thảo cho người, ngựa của họ. Rồi sau đó lại phải cung đốn thêm quân lương cho họ chở qua Chiêm Thành.
Vậy các khanh hãy nghị bàn cho cạn nhẽ.
Tiếng nhà vua âm vang như tiếng chuông trong trẻo, ngân dài trên mặt sông rộng. Nước sông xanh, sóng vỗ nhẹ, không khí yên ả, thanh bình, khiến ai nấy đều có cảm giác như đang sống trong thời thái cổ, khi mà loài người còn chưa biết đến chiến tranh.
Giữa lúc triều thần đang im phăng phắc nghe nhà vua bố cáo các việc quân quốc trọng sự, thì có hai chàng thiếu niên phóng ngựa như bay về phía bến Bình Than. Hai con ngựa một xám, một tía, bọt xùi trắng mép, bốn vó sải dài như bay vào không gian. Tới chân cầu phao, nơi dẫn ra đoàn thuyền cờ xí rợp trời, vàng son lóa mắt thì họ dừng ngựa, rồi nhảy phắt xuống nhẹ nhàng như những kỵ sĩ dạn dầy chinh chiến. Lập tức họ bị quân canh ngáng lại. Chàng thiếu niên đi đầu, mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, vừa nói vừa ghìm hơi thở mạnh:
- Ta, chàng chỉ vào mũ, áo, đai bối mang tước hầu của chàng và nói - Hoài văn hầu Trần Quốc Toản. Chàng ngước cặp mắt trong sáng với vẻ ngạc nhiên nhìn người quân hiệu.
Quốc Toản vừa dứt lời, thiếu niên thứ hai cũng nói luôn:
- Còn ta, Hoài Nhân vương Kiện.
Mặc dù hai người đã xưng đủ phẩm tước, lại nói với vẻ thành thật, nhưng người quân hiệu vẫn đứng chắn lối đi, và lễ phép thưa:
- Bẩm, tôi không dám nghi ngờ gì các vương, hầu. Nhưng đây là đức vua nghị bàn việc nước, chỉ có những đức ông đã lớn tuổi mới được vào. Ai vào đây cũng phải có tín bài xuất trình.
- Bậy nào, Quốc Toản quắc mắt nạt. Việc nước là việc của mọi người, mọi nhà. Lại chợt nghe lõm bõm tiếng được tiếng mất, cái gì như là “Cho mượn đường để quân Nguyên đánh qua Chiêm Thành” lúc vừa đặt chân tới bến. Thế là chàng gạt người quân hiệu ra, chạy băng lên. Vương Kiện không dám chạy theo chàng mà đi ngược lại bến.
Quốc Toản vừa chạy vừa la: “Xin quan gia đừng cho giặc mượn đường ! Mưu đồ Ngu diệt Quắc đấy !”. Người quân hiệu không đuổi, chỉ rút chiếc tù và ở lưng ra thổi ba tiếng. Lập tức có cả chục người đứng canh ở phía đầu cầu phao, tiếp giáp với các mạn thuyền, thuần những tay to lớn như các đô vật nhô ra cản chàng.
Tiếng la làm kinh động, khiến một số người ở những cánh thuyền vòng ngoài nhao nhao nói:
- Trói chúng lại!
- Quân phạm thượng?
- Tội khi quân?
- Chém để giữ nguyên quân pháp !
Nghe tiếng ồn ào, Trần Thánh tôn, Trần Nhân tôn cả hai vua đều ló ra hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Thị vệ liền cho đòi mấy người quân hiệu lại. Họ thuật các việc như đã xảy ra. Hai vương cùng cười xòa.
Các đại vương nhiều người xin vua cho tiếp tục nghị bàn. Lại có người đòi phải nghiêm trị.
Vũ Đạo hầu nói:
- Quân pháp vô thân! Không trị tội, khó mà giữ nghiêm được phép nước.
Trần Bình Trọng nói:
- Quốc gia hữu sự, thất phu hữu trách. Nay Hoài Văn hầu người nhỏ mà chí lớn. Muốn đem tuổi trẻ hiến dâng cho Tổ quốc, họ chẳng đáng nêu gương sáng cho thiên hạ chung soi? Cớ sao lại bắt bẻ tội tình gì?
Hoài Văn hầu không những không được dự bàn, còn nghe họ đòi trị tội, chàng giận đến tràn hông. Nỗi uất ức bốc lên như chẹn cứng nơi cổ họng, không bật ra thành tiếng nói được. Chàng không thể hiểu, tên tuổi một số vương xưa nay chàng từng đem lòng kính ái, mà lại tối tăm thiển cận đến như vậy. Chàng cười thầm:
- Họ độc quyền cả lòng yêu nước! Nghĩa là chỉ có họ - người có quyền cao chức trọng mới được dự bàn việc nước? Còn dân chúng thì sao? - Dân chúng chỉ là một thứ bèo bọt trong tay họ sai khiến, áp đặt?
Thấy lời qua tiếng lại gay go. Chiêu Thành vương bèn đứng lên vái hai vua mà rằng:
- Hoài Văn hầu chẳng may cha mất sớm. Hạ thần là chú ruột, lại không dạy bảo được cháu chu toàn. Hạ thần xin được chịu tội thay cho cháu, vì nó chưa đến tuổi thành niên. Vả lại, cảnh nhà Toản hiếm hoi một mẹ một con - Ngửng nhìn hai vua, mắt ông đỏ lên vì giận, cả vì xúc động nữa, ông lại nói- Âu cũng là chuyện hổ phụ sinh hổ tử. Cuộc dẹp giặc Mông - Thát tràn vào năm Đinh tỵ, cha nó hăng hái lập được công lớn. Thượng hoàng đã ban cho hai ba phẩm tước, lại cho hưởng thêm thực ấp. Nay con trẻ dại dột trót bộc lộ thái quá lòng trung với nước, nên phạm oai trời, kính mong bệ hạ soi xét.
Thượng hoàng Thánh tông nghe tâu xong mỉm cười - Chiêu Thành vương hãy bình tâm. Nhà vua dưa mắt nhìn Quốc Toản suốt từ đầu đến chân, lòng thầm khen: “Thằng bé khôi ngô, tư chất đàng hoàng”. Đoạn Thánh tông thong thả truyền:
-Hoài Văn hầu phạm vào luật cấm, không thể nói là không có tội. Nhưng đáng trọng thay nhân cách của một con người - một thiếu niên đối với sự mất còn của đất nước. Ta cho đây là một điềm báo trước vận nước đang hưng, nên sự hùng tâm hùng lực đã biểu hiện ngay cả ở đám thiếu niên non nớt. Ta cho lời nói của tướng quân Trần Bình Trọng về gã tiểu anh hùng này là hữu lý.
Đúng lúc đám quan nội hầu dâng hoa quả lên hai vua. Đầy một mâm cam, quýt, Trần Nhân tôn nhón lấy một quả cam đặt vào tay Quốc Toản, nói lời an ủi:
- Lòng trung dũng của em, vậy là cả nước đều biết. Vận mệnh nước nhà, nhất định phải trông chờ vào lớp người sau như em. Tiếc rằng em còn nhỏ quá. Hãy về quê thờ mẹ cho trọn hiếu, chịu khó rèn luyện thân thể cho cường tráng, tập tành võ nghệ cho tinh thông, chờ ngày giết giặc lập công.
Nhà vua nhẹ nhàng đặt hai tay lên đôi vai hơi gầy của Trần Quốc Toản. Đám quan thị vệ dẫn Quốc Toản lên bến. Đi qua đoạn cầu phao, lòng chàng đầy hậm hực, hai ba lần ngoái nhìn lại nơi các vương hầu đang nghị bàn việc nước, với ánh mắt giận hờn - “Được, ta sẽ cho các người biết thế nào là gan dạ thiếu niên - Dám coi ta là con nít”, chàng thầm nhủ lòng như vậy. Khi người quân hiệu đặt chiếc dây cương ngựa vào lòng tay chàng. Quốc Toản xòe ra đỡ, quả cam trong tay chàng đã bóp nát từ lúc nào, chỉ còn lại một nắm bã. Vứt xác quả cam xuống đường, chàng nhảy phốc lên mình ngựa ra roi. Đi được một quãng thì Hoài Văn hầu gặp Vương Kiện đang tha thẩn chờ chàng.
Lại nói đến việc nghị bàn. Sau khi Trần Nhân tôn nói về các yêu sách vô lý của vua nhà Nguyên, và những điều kiện láo xược mà Hốt-tất-liệt áp đặt, tiếp đến là tướng quốc thái úy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, bố cáo các việc trong nội tình đất nước, như việc binh, việc lương. Khi nói đến công cuộc bang giao với ngoại nhân, chủ yếu là với triều đình nhà Nguyên, thái úy không nén được lòng căm uất, vì tất cả những diều quốc sỉ mà với tư cách một tướng quốc, thái úy phải cân nhắc, nhường nhún sứ giặc. Cuối cùng thái úy dằn giọng:
- Hai mươi lăm năm kể từ sau cuộc xâm lăng của giặc Mông-Thát năm Đinh tỵ, quốc triều ta đã nhún mình thờ nước lớn cho phải đạo. Nhưng ta càng nhún, kẻ kia càng lấn. Khi trước Hốt-tất-hệt chưa định xong Trung Nguyên, y còn nương gượng, khi căng khi chùng. Nhưng từ khi y đã đại định được Trung Nguyên, thì việc lấn tới ngày càng trắng trợn. Chúng ta càng không muốn có nạn binh đao, cho nên chúng ta cứ phải nhượng bộ; kẻ kia cậy mạnh, nên càng ép. Chúng ép được mà không phải động binh, tức là thượng sách của chúng. Khi chúng không ép được, lập tức chúng sẽ dùng binh. Theo thiển ý của hạ thần, công cuộc bang giao không còn mảy may hy vọng. Nếu chúng ta không tự mài nanh giũa vuốt, binh mạnh, lương nhiều, tức là chúng ta nộp mình cho hổ đói.
Trần Nhân tôn nhìn khắp lượt triều thần, rồi quay lại hỏi quan công bộ Nguyễn Hiền:
- Khanh cho biết công cuộc rèn đúc khí giới đến đâu. Có sáng chế thêm được loại nào đắc dụng không?
Được nhà vua hỏi đến, Nguyễn Hiền vội liếc nhìn lại cái hốt cầm trong tay. Đó là những việc chính cần tâu, cần bàn, ông đã ghi kín cả hai mặt hốt. Nguyễn Hiền có dáng người nhỏ nhắn, nom ông có vẻ một văn nhân hơn là một võ tướng. Từ khuôn mặt, cặp mắt cho đến đôi môi, các đường nét đều toát lên sự thanh tú, thâm trầm mà điềm đạm. Ta còn nhớ khoa thi năm Đinh mùi (1247), khi nhà vua cho tam khôi vào bệ kiến, và trao mũ áo trạng nguyên, Nguyễn Hiền ngày ấy là một chú bé mười ba tuổi, dã làm cả triều đình kinh ngạc. Đức Thái tôn đặt chiếc mũ lên đầu trạng, mũ rộng sụp gần kín cả khuôn mặt. Lại chiếc áo bào có đai ngọc, mặc trùm kín cả người như một cái chăn rộng. Nhà vua phải thốt lên: “Thời thịnh chăng? Thần đồng xuất hiện chăng?”. Ba mươi lăm năm trôi qua, cuộc đời trạng xiết bao thăng trầm, từng trải.
Nhớ lại chiến trận chớp nhoáng năm Đinh tỵ, tướng giặc Ngột-lương-hợp-thai kéo quân vào cõi, tưởng ăn tươi nuốt sống Đại Việt. Ngày ấy Nguyễn Hiền mới hai mươi ba tuổi, ông chỉ làm việc quanh quẩn trong Nội thư gia( thư viện hoàng gia), Quốc tử viện( nơi con cái các đại thần hoàng thân quốc thích học tập), rồi lại Quốc sử viện. Phải nói, buổi sơ Trần chỉ có Trần Thủ Độ là người kiệt hiệt nhất. Trị nước đã giỏi, giữ nước cũng giỏi. Ông tạo dựng cũng được lắm người tài. Như Trần Quốc Tuấn chẳng hạn. Ngay khi Trần Thủ Độ còn sống thì Quốc Tuấn đã là một tướng giỏi. Trận giao tranh đầu tiên với giặc mạnh, ông cũng tìm được phép đánh, không cho giặc phát huy sở trường. Ông là một vị tướng đánh giặc không cần thắng ngay, không ham thắng nhiều, mà chỉ cần những trận thắng quyết định có cơ chuyển xoay đại cuộc. Từ ngày ấy, Quốc Tuấn đã hé lộ bản lĩnh của một bậc trí tướng. Và nay, ông là cột trụ của triều đình. Nguyễn Hiền liếc nhìn Quốc Tuấn, con người uy phong lẫm liệt như Quan Công, lúc nào cũng điềm đạm. Thắng không kiêu, bại không nản.
Trước sự uy hiếp ghê gớm của kẻ thù, ông vẫn thong dong thư thái. Nguyễn Hiền nhận thấy Hưng Đạo vẫn chăm chú nghe mọi người nói. Đôi mắt sáng thỉnh thoảng lại dọi vào người này người kia, hệt như đôi kính chiếu yêu, để tìm ra sự trong đục đang ẩn náu đằng sau những tấm áo thụng tía của các vương thần. Có lúc ông ve vuốt chòm râu rậm đã ngả màu sương khói, và mỉm cười. Nom ông thanh thoát như một đạo sĩ Lão-Trang, như một tiên ông đang trầm mặc bên bàn cờ thế sự. Ấy vậy mà Quốc Tuấn cũng chỉ hơn ông chừng bốn năm tuổi. Sực nhớ lời vua hỏi, Nguyễn Hiền cẩn trọng tâu:
- Tâu thượng hoàng, tâu quan gia. Hiện theo lệnh của triều đình, dân chúng đang mở mang nghề rèn. Mỗi làng bắt buộc phải có một bễ lò rèn để rèn đúc khí giới. Các lò mới lập thợ chưa giỏi, thường chỉ rèn các loại giáo búp đa, dao trường, mã tấu, đinh ba, câu liêm và các đồ dao rựa, cuốc cào cho dân binh, và cho cả nông phu. Còn các lò lớn, thợ giỏi sẽ rèn, đúc các loại vũ khí to, nặng như trùy, đao, búa, côn, kiếm và các mũi tên đồng cho các bậc đại tướng, các dũng sĩ và đội quân thần nỗ. Dạ tâu, nếu mua được đủ sắt, gang, đồng, các lò làm cật lực thì trong vòng một năm nữa mới đủ binh khí cho hai mươi vạn tinh binh và ba mươi vạn dân binh. Dạ, đấy là nói số binh khí trang bị đại đởn, chứ dự trữ thì chưa có. Dạ, việc khai mỏ đồng, mỏ sắt của ta vẫn tiếp tục, nhưng không đủ dùng cho việc binh quá lớn.
Trần Thánh tôn ngắt lời:
- Liệu Hốt-tất-hệt có chờ một năm nữa để cho khanh rèn xong binh khí, rồi y mới đề binh không?
- Muôn tâu thánh thượng, Nguyễn Hiền nói - Nếu Hốt-tất-liệt cấp thời đánh ta ngay, thì hiện số binh khí trong nước cũng tạm thời đủ dùng cho mười lăm vạn tinh binh, hai mươi vạn dân binh. ấy là chưa kể số võ khí do dân tự tạo như cung, nỏ, côn, đao. Vả lại nhiều thái ấp, các vương đều có lò làm binh khí cả. Bẩm hoàng thượng, lúc đó phải nhân lòng căm giận của toàn dân lên thành sức mạnh thần thánh mà đánh giặc. Hơn nữa phép làm tướng, phải biết lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, cướp lấy binh khí của giặc mà đánh lại giặc. Lấy lương thảo của giặc mà nuôi quân mình.
Dạ, muôn tâu, hiện thời thần đang cho chế thử mấy loại súng lớn, gọi là “Cự thạch song sảo pháo”, và “Cự thạch ngũ sảo pháo”( Đây là loại pháo bắn đá hai nòng, năm nòng. Đương thời quân đội Ba-tư cũng được trang bị loại pháo này do họ tự chế). Dạ, loại đơn sảo thì trong quân đã có dùng lâu rồi. Loại này có thể bắn xa vài ba ngàn thước, mỗi lần bắn khoảng gần trăm viên đạn đá. Đá ấy có thể xuyên thủng được chiến thuyền bọc đồng lá và ván gỗ dầy ba tấc. Loại này chủ về đánh tầu thuyền hoặc công phá thành trì. Một loại nữa là hỏa pháo. Loại này chủ về đốt kho lương, kho cỏ, hoặc bắn vào nơi tập trung quân bộ, quân kỵ. Dạ, còn chiến thuyền hiện có ba lò đang đóng ở Bạch Hạc, Thiên Trường và cửa Hội đủ cung cấp cho quân thủy của ta. Nỏ liên châu thì đã giao hẳn cho Trịnh Giác Mật làm từ hơn một năm nay, đủ phân phát cho các đội thần nỗ trong quân.
Dạ, muôn tâu bệ hạ, các loại binh khí, chiến cụ của quân Nguyên không hơn gì quân ta. Thậm chí, nếu ta chế thành công mấy loại pháo thì ta hơn địch.
Tuy nhiên, không thể coi thường quân kỵ của giặc Nguyên. Hàng trăm quốc gia nghiêng đổ thành trì vì kỵ binh Mông Cổ. Việc này chắc Quốc công đã có sách lược. Nguyễn Hiền nuốt một hơi thở nhẹ vào bụng, như nén đi nỗi mệt nhọc mà từ mấy năm nay ông phải gánh vác. Đoạn ông lại nói - Tâu hoàng thượng, sự thắng bại không hoàn toàn lệ thuộc vào nơi binh khí mà ở tài thao lược của tướng lĩnh, và lòng trung dũng của ba quân. Nhân đây, thần xin bệ hạ cho xuất kho ba mươi vạn lượng vàng để mua đồng, sắt và thuốc súng. Dạ mua ngay của khách buôn người nhà Nguyên và người Hồi-hột.
Nguyễn Hiền vừa dứt lời, không khí im phăng phắc, chỉ nghe tiếng sóng vỗ lóc róc quanh mạn thuyền. Và bất chợt một đàn ngỗng trời bay qua che rợp cả mấy chục chiến thuyền. Đúng lúc chúng giăng ngang thuyền ngự, thì cả bầy cùng thả ra những tiếng kêu vang từ lưng chừng trời, tưởng như đó là khúc nhạc tiên thiên tấu mừng các quần hùng tụ hội. Thế nhưng Trần Thánh tôn lại nghĩ khác. Nhà vua liên tưởng đến tiếng quạ kêu đêm khi chúng bay ngang qua thủy trại của Tào Tháo trên sông Trường Giang, lúc Tháo sắp sửa đánh Đông Ngô. Nét mặt nhà vua lộ vẻ buồn chán. Thánh tôn hất hàm hỏi Hàn Thuyên: “Thế là điềm gì?”.
( Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn làm quan tới chức thượng thư bộ Hình. Tháng 8 năm Nhâm ngọ (1282) (trước sự kiện Bình Than hai tháng) có cá sấu nổi lên ở sông Lô. Vua sai Nguyễn Thuyên làm văn, thư ném xuống. Cá sấu tự đi mất. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ đời Đường, bèn cho Thuyên đổi họ Hàn.)
- Muôn tâu thượng hoàng, quan Hình bộ thượng thư nói - Thiên nga là một giống chim quý của phương bắc. Nay chớm mùa đông, chúng tránh rét di trú về phương nam ấm áp. Vậy là đất lành chim đậu, xưa nay vẫn thế. Đàn chim đông đúc thế kia, càng làm tăng thêm cảnh đẹp và sự phồn vinh của phương nam. Xin bệ hạ yên tâm. Đó là lộc trời cho Đại Việt ta đó. Dạ, muôn tâu thượng hoàng, cảnh nay khác xa cảnh tiếng quạ kêu đêm của Tào Tháo. Vì quạ là loài ác điểu. Quạ là giống chim ăn ngày, lại bay ra kêu đêm như loài cú. Điều trái tự nhiên ấy, báo hiệu một điềm gở. Chính nó đã ứng vào trận Xích Bích, khiến tám mươi ba vạn quân Tào bị đánh tan tác.
Nghe Hàn Thuyên phân giải, vua tôi lại vui vẻ. Trần Nhân tôn gạn hỏi:
- Vậy là vương triều ta nhất tâm cự tuyệt việc nhà Nguyên mượn đường đánh Chiêm, cùng các yêu sách khác của Hốt- tất -liệt đều gạt bỏ?
Thánh tôn nói tiếp:
- Cự tuyệt, nhưng vẫn cứ phải nhún nhường. Theo ta, nên gửi biểu trần tình sao cho kẻ kia không vì lẽ ta chối từ mà nổi giận.
Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc từ sớm vẫn chưa khai khẩu nói điều gì. Mặc dù trong các lời qua tiếng lại, có nhiều việc, nhiều điều bất như ý. Trong thâm tâm ông vẫn cho hai vua và triều đình đều thiển cận, không biết tự lượng sức mình. Ông thương cho đám dân đen vô tội, một khi bị cuốn vào cơn binh hỏa, thì họ cũng chỉ là một lũ thiêu thân.
Thấy không thể không bày tỏ ý của mình, Chiêu Quốc vương bèn nói:
- Tâu hoàng thượng, tâu quan gia, Đại Việt ta từ thuở lập quốc vẫn một lòng thờ nước lớn lân bang. Mạnh yếu mỗi thời khác nhau. Như Ngô vương Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn tuy có đánh đuổi được quân Nam Hán, quân Tống, nhưng vẫn một lòng thần phục, chịu cho phương Bắc phong thần. Tiếp đến nhà Lý, tạo dựng được một quốc gia hùng cường. Nhằm lúc nhà Tống suy yếu, thừa cơ Lý Thường Kiệt đem quân vào đánh phá hai châu Khâm, Liêm. Nhưng rồi lại phải nhanh chóng rút về phòng thủ, và vẫn phải xin giảng hòa và chịu phận phiên thuộc. Nhưng nhà Tống cũng chỉ phong cho tước An Nam quận vương. Mãi sau đó mới chịu phong các vua nhà Lý làm An Nam quốc vương. Lại so binh ta với binh thời Lý thế nào? Binh ta nhiều hơn, mạnh hơn binh thời Lý? Nhưng binh Nguyên so với binh Tống thời ấy thì sao? Trần ích Tắc dằn giọng hỏi. ông tự ngừng một lát, rồi lại lên tiếng - Binh nhà Nguyên hiện nay có sức mạnh di sơn đảo hải. Khắp bốn phương trời, đều không có địch thủ. Từ đông sang tây, từ nam đến bắc, từ miền rừng rậm núi cao, sông hồ đầy rắn rết, đến các miền sa mạc khô cằn, cả đời người không thấy một trận mưa. Từ miền bốn mùa rét mướt giá băng đến các vùng biển sâu thăm thẳm, núi cao chót vót chọc trời. Từ đế quốc hùng mạnh ghê gớm, mà âm vang còn khiếp đảm nhiều dân tộc, như đế quốc La Mã cổ xưa, hoặc của quốc gia mênh mông gấp trăm vạn lần các quốc gia khác, như Trung Hoa, Thiên Trúc, Nga-la-tư, Ba-tư, Ai-cập... tất cả các thành trì ấy, các vương quốc ấy đều run cầm cập hoặc bị xéo nát dưới vó ngựa tàn bạo của quân Mông Cổ. Quân Mông Cổ đi đến đâu thì gió ngừng thổi, cát ngừng bay, nước sông ngừng chảy. Vó ngựa quân Mông Cổ lướt tới đâu, đường không còn một ngọn cỏ. Các quốc vương đều nem nép cúi đầu dâng nộp thành trì. Đội quân ấy đã chinh phục Trung Hoa, làm nhục nhiều đời vua Tống, đã tàn phá xác xơ và hiện đang thống trị Trung Nguyên. Sức mạnh Mông Cổ, hợp với kho của kho người của Trung Hoa, sẽ là nguồn cung cấp vô tận cho cả chục cuộc chiến tranh lớn, sẽ kéo dài tới trăm năm không nao núng. Thử hỏi, cái càng xe con bọ ngựa của chúng ta, có làm đổ cỗ xe hàng trăm voi kéo của nhà Nguyên không, mà bệ hạ cự tuyệt không cho Hốt-tất-liệt mượn đường? Người thức giả phải biết làm việc gì có lợi cho nước, cho dân. Kết liên với nước mạnh, là việc làm khôn ngoan nhất. Phải biết tự lựa sức mình mà chờ thời, nếu không sẽ có tội với quốc dân và làm trò cười cho hậu thế. Mọi người đều đã đọc qua Kinh Dịch sao không biết ngẫm cái chữ “thời”? Trần ích Tắc hạ một lời hết sức cao ngạo, khiến ai nấy đều bất bình.
Trần Khánh Dư một con người thất thế. Một tướng tài bỏ xó đã nằm chết dí ở góc rừng sâu, kiếm ăn cho qua ngày đoạn tháng, như một lão tiều phu. Ông không còn gì nữa để chờ thời. Gia sản bị tịch thu. Tước trật bị cách tuột. Ơn vua đối với ông là chưa phải chết, và chưa phải đổi họ tên. Từ lúc bị gọi lên thuyền ngự, ông vẫn ngồi bó gối nghe bàn. Điều gì ông cũng nghe cả, nhưng rồi ông cũng coi như một cơn gió thoảng, chẳng còn ngưng đọng được chút gì trong óc não. Việc ông quan tâm hơn hết trong lúc này, là chiếc thuyền than đầy ắp của ông đang nằm đây, như một kiểu bị cầm giữ, trong khi các lái mua đang chờ ông tại bến. Thế là ông đã sai hẹn, và họ sẽ mua than của thuyền khác. Than ông lỡ mất một phiên chợ. Vợ con ông lại thiếu đói mất năm ngày gạo.
Nhưng nói cho công bằng, thì sự việc xảy ra ban sáng, đối với thằng bé cháu nhà Chiêu Thành vương, tức Hoài Văn hầu Quốc Toản, cũng có làm ông mủi lòng. Sự thật, ông rất trọng nhân cách của cậu bé này. Tuy là trong nội tộc, nhưng ông ở khác chi, và nhất là sau khi ông thất thế, thân còn cũng coi như đã khuất. Vì có thân mà không có danh, đời còn ai biết đến, nên ông chẳng có đi lại, có quan hoài với ai trong nội tộc. Nhưng vừa nghe mấy lời dạy đời cao ngạo của hoàng tử Chiêu Quốc vương, ông thấy nổi máu uất ở trong người. Chao ôi một con người cứ nghe đồn nổi tiếng tài hoa, văn học lẫy lừng vào bậc nhất Thăng Long. Kiến thức hơn đời gì mà nhân cách không bằng thằng bé con. Đã không dám chống lại bọn rợ Hồ, lại còn dùng ba tấc lưỡi biến chúng thành con ngoáo ộp nạt dọa người đời. Bực mình, Trần Khánh Dư đứng phắt chạy đến trước mặt thượng hoàng, sụp lạy:
- Muôn tâu, thần tuy có bị lỡ phiên chợ, cũng xin được tỏ đôi lời.
Nghe Khánh Dư nói, mọi người cười ồ. Khánh Dư nghiêm lạnh nhìn khắp lượt.
Không khí có vẻ căng thẳng.
Trần Thánh tôn nhìn sắc mặt Khánh Dư hiện lên vẻ quắc thước, trở lại phong độ của một vị tướng, chứ không còn rụt rè của một ông lái bán than. Nhà vua thấy đẹp lòng bèn khích lệ:
- Khanh cứ nói tự nhiên. Đây là bàn việc quốc sự. Chưa ngã ngũ bề nào. Các ý phải trái chưa phân, không việc gì phải che giấu lòng mình.
- Kính thưa thượng hoàng ! Kính thưa quan gia - Khánh Dư lại nói và đưa mắt nhìn khắp lượt - Kính thưa các vương hầu, các đại quan - Cuộc chiến năm Đinh ty tôi được Thái thượng hoàng cho theo đánh giặc Thát. Ngày ấy chỉ thuần quân Thát-đát hung bạo, chứ chưa có đám quân tân phụ hèn yếu xen lẫn vào như quân Nguyên bây giờ. Theo thiển ý của tôi, các nước lớn bị thua bọn rợ Hồ này, là vì nội tình họ ngu hèn vị kỷ, chứ không vị dân, vị quốc. Chúng nó, cái bọn nhà Nguyên ấy, thuần là một lũ giặc, cướp. Thiên binh, thiên tướng, thiên tử, thiên triều gì nếu đem quân vào đất người cũng đều là giặc, là cướp cả. Giặc vào nhà, cướp vào nhà phải đánh đuổi nó ra, để mà yên ổn làm ăn. Thử hỏi, có nhà nào, trộm cướp đến không lo việc hô hoán làng xóm cứu rồi tự mình đánh đuổi nó đi, lại trói cha mẹ vợ con anh em lại nộp cho cướp. Và chỉ cho nó chỗ cất giấu của cải. Đó là việc tự cổ chưa từng thấy. Cho nên đối với nhà Nguyên, dùng sức mạnh ép ta đủ điều. Ta muốn sống đàng hoàng như một con người thì phải chống lại, đánh lại? Tôi tuy bất tài, xin theo dưới quân đánh giặc. Ông thượng thư bộ công lo phần binh khí thế là rất quí. Mong sao các loại cự thạch “Song sảo”, “Ngũ sảo” pháo và “Hỏa pháo” ấy thành công mỹ mãn. Thần đã được đọc và có nghiền ngẫm kỹ “Hưng Đạo binh pháp”. Xin đem sách ấy dạy cho tướng sĩ. Thâu nhận được tinh thần đó thì sức mạnh trong quân không biết đến đâu mà lường trước được. Xin chớ có ngại ba cái thằng kỵ binh Mông Cổ nhãi ranh, với mấy con ngựa nòi. Chính chúng đã đại bại trên đất này hai mươi lăm năm trước. Nhiều người ở đây đã từng đánh giặc Thát. Cũng nhiều người chứng kiến khi giặc Thát rút chạy nhanh hơn là khi nó đến.
Lời nói của Trần Khánh Dư như khích vào lòng tự trọng dân tộc và tự tôn phẩm giá, khiến ai nấy đều cụng cựa muốn nói. Khác với khi Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc biện bác, làm cho không khí im lìm. Tuy nhiên, không phải chỉ có một mình Ích Tắc có lòng nể sợ Hốt-tất-liệt, mà rất nhiều người ở vào hàng tôn quý cũng nghĩ như ông, song họ không dám nói ra.
Nghe lời bàn của Trần Khánh Dư, hai vua rất đẹp lòng. Ngay lập tức, Trần Thánh tông ban ý.
- Triều đình sẽ trả lại tất cả gia sản cùng thái ấp phủ tước cho khanh. Trẫm sẽ mua thuyền than của khanh với giá gấp mười lần giá chợ. Khanh có bằng lòng không? Nhà vua nhìn về phía Khánh Dư và mỉm cười.
Trần Khánh Dư vái tạ với tấm lòng biết ơn.
Kế đó, Trần Nhân tôn nói:
- Vậy là ngày hôm nay trời cho ta thêm một viên đại tướng ! Có đúng là ứng với điềm thiên nga sớm nay không các khanh?
Mọi người cười vui.
Nhà vua lại hỏi:
- Vậy chớ còn ai muốn bày tỏ điều gì. Ngay cả sự lo ngại nữa, cũng nên nói cho cạn nhẽ, rồi ta bàn thật thấu đáo. Đây là việc nước, ai ai cũng có trách phận như nhau. Trần Nhân tôn nói và dừng lại cặp mắt hiền hậu nơi hàn lâm học sĩ Lê Văn Hưu.
Thấy nhà vua có lòng ưu ái đối với mình, quan quốc sử bèn vòng tay vái bề trên hai vái, rồi nói:
- Dạ muôn tâu, ý trăm quan đều tỏ rạng cả. Thần là một sử quan, xin ghi nhận và chép lại hết thảy sự việc thật trung thực, để đời sau được biết, trước thế nước nghìn cân treo tóc, vua tôi đã bàn như thế nào, và sẽ làm như thế nào để giữ nước. Dạ, thần không dám bình phẩm gì cả. Lời bàn của quan đôi khi làm thiên lệch sức kiến giải của hậu thế. Như đo đắn mãi và dằn lòng, Lê Văn Hưu lại nói:
- Tuy vậy, thần chỉ nêu lại một vài cảnh ngộ đã diễn ra trong lịch sử gần đây, để thượng hoàng và các bậc đồng liêu nghiêm khảo. Ấy là việc nhà Bắc Tống bị quân Kim thôn tính. Nhưng Mông Cổ lại chinh phục được nước Kim. Năm Nhâm thìn (1232), tháng năm, Mông Cổ chiếm Biện Kinh( Khai Phong), Kim Ai tông chạy về Qui Đức, rồi về chốt ở Thái Châu( nay là đất Nhữ Nam thuộc tỉnh Hà Nam).
Người Mông Cổ vừa thiếu quân vừa cạn lương. Muốn diệt được quân Kim, họ bèn liên minh với nhà Nam Tống cùng đánh. Giao ước rằng diệt xong Kim, nhà Nam Tống sẽ thu hồi ba kinh thành: Đông Kinh( một tên khác của Khai Phong), Tây Kinh( tức kinh đô Lạc Dương của đất Hà Nam) và Nam Kinh( tức Thượng Khâu, thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay).
Tống Lý tông bèn sai Mạnh Hồng làm tướng, đem hai chục ngàn quân và ba trăm ngàn thạch lương, giúp Mông Cổ vây Thái Châu.
Năm Giáp ngọ (1234), tức là hơn hai năm sau, liên quân Mông-Tống đánh vỡ Thái Châu, Kim Ai tông tự sát. Nước Kim mất.
Theo ước thúc, nhà Nam Tống tiến quân thu hồi lại các miền đất cũ. Nhưng quân Mông Cổ đã tháo nước sông Hoàng Hà dìm chết mấy vạn quân Tống. Kế đó là một cuộc đại xâm lăng nhà Nam Tống. Vương triều Tống đã kết thúc thê thảm trong thế trận Nhai Sơn vào năm Kỷ mão (1279). Lê Văn Hưu thở dài, như là ông muốn chia sẻ nỗi buồn khờ dại của vua tôi nhà Nam Tống. Rồi ông thong thả nói như đếm mấy lời sau đây:
- Xem ra việc Hốt-tất-liệt mượn đường, vay lương, vay quân của Đại Việt đánh Chiêm Thành ngày nay, cũng không có khác gì với việc năm mươi năm trước, họ liên minh với nhà Nam Tống đánh nước Kim vậy?
Kể lại bài học cay đắng của nước láng giềng, Lê Văn Hưu đã gieo vào lòng mỗi người một hạt giống cảnh giác. Và vì vậy không còn ai bàn lùi nữa. Cuộc nghị bàn vừa sôi nổi, vừa sâu sắc.
Sau ba ngày cuộc nghị bàn kết thúc, Nhân tôn đã phong lại cho Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư làm phó đô tướng quân, và cắt cử các tướng đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Ít lâu sau, lại phong thái úy Chiêu Minh vương Trần Quang Khai, kiêm chức thượng tướng, thái sư. Và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, làm quốc công tiết chế, thống lĩnh thiên hạ chư quân sự.
CHƯƠNG 13 :

Lại nói về thượng thư bộ lễ Sài Thung, sau khi dời Đại Việt, lòng canh cánh lo về cái đám một ngàn tên quân Mông Cổ và bốn ngàn tên quân tân phụ hỗ trợ cho phái bộ bang giao của y, bị đánh hất lại ở ngay địa đầu biên ải, chẳng biết sống chết thế nào. Sự thật, điều y lo nhất là cánh quân Mông Cổ - người đồng tông với thiên tử, chứ “lũ dòi bọ”- những đồng bào của y mà y quen gọi trong đám quân tân phụ ở Quảng Tây thì chẳng có gì đáng nói.
Vừa về tới Yên Kinh, Sài Thung đã vội dò tìm xem có ai đàn hặc y ở triều đình. Nhưng được biết, mọi tiệc đều im ắng. Riêng cánh quân Mông Cổ bị đánh bất ngờ đã quay lại. Vài mươi tên bị chết, bị thương do lăn xuống hố, bị ngựa dẫm đạp hoặc giày xéo lên nhau mà chết. Chúng chạy tìm về nhập lại với quân thứ cũ. Nghe nói, bọn ấy hiện đang tập hợp dưới trướng nguyên soái Toa-đô, sắp vượt biển sang đánh Chiêm Thành.
Sài Thung thở phào, như người vừa trút được gánh nặng ngàn cân, cứ đè trĩu lên y bấy lâu nay. Bây giờ nếu nhà vua có hỏi đến, y sẽ phải trách viên đô úy đã chậm trễ, khiến rơi vào ổ mai phục, thành thử không thực hiện được đầy đủ thánh ý của thiên tử. Tuy một mình y phải đối phó với vua tôi nước Nam, nhưng ân uy của thiên tử vẫn được nhuần thấm tới nước họ. Y sẽ nói lại tất cả những điều y đã hạch sách triều đình nhà Trần, và họ nhất nhất kính cẩn đối với thiên triều và thiên tử ra sao...
Song cái khó nhất đối với Sài Thung là các yêu sách của Đại đô áp đặt, đều bị Thăng Long cự tuyệt. Đây không phải là một sự cự tuyệt trắng trợn, mà họ chỉ xin với thiên triều thương tình soi xét gia ân. Chao ôi, vua tôi nhà Trần, cái lũ man rợ này sao mà chúng tham lam đến thế. Ta đã ép đến cùng đường, vậy mà chúng cũng không chịu nhả ra một tí cho thiên tử. Sài Thung nhớ bữa dạ yến trong điện Tập Hiền, y đã nhắc Trần Nhân tôn:
- Thiên tử lúc nào cũng nhớ tới ngài và con cái ngài. Người muốn thấy dung nhan kẻ thần tử xa xôi để ngài vỗ về, phong thưởng. Vả lại, từ khi thiên tử lên ngôi, quân trưởng An Nam chưa có một ai tới chầu?
Nhân tôn giả vờ run sợ đáp:
- Xin các hạ về tâu giùm thiên tử, tôi sinh trưởng chốn thâm cung, không biết cưỡi ngựa, không quen phong thổ, sợ chết dọc đường lại nhọc lòng thiên tử xót thương. Ngoài ra, con em từ các bậc thái úy trở xuống cũng đều như thế cả. Còn như thiên tử lên ngôi, đó là việc lớn của toàn thiên hạ, tiên quân tôi trước đây tuổi cao sức yếu không đi được, đã cử sứ sang dâng biểu cùng các đồ phương vật tiến cống.
Bực mình, Sài Thung nói:
- Cứ cho rằng điều ngài nói trên là đúng. Thế thì việc nộp sổ kê biên dân số có mất gì, mà An Nam cũng không chịu nộp? Chẳng qua thiên tử muốn biết các nước nội phụ to, nhỏ thế nào để bề trên còn trù liệu việc chăn dắt!
Nhân tôn làm ra vẻ bối rối:
- Quả như lời các hạ nói. Nhưng nước chúng tôi nhỏ, đáng gì để thiên tử bận tâm. Vả lại, trong thôn ấp khó tìm ra được người thạo thông chữ nghĩa thì làm sao mà kê khai được. Nếu như đưa tất cả các quan lại của triều đình đi làm việc này, phải gần hai chục năm mới xong. Tới lúc ấy còn ích gì nữa mà làm. Sợ khi sổ sách dâng lên không được như ý, chỉ làm thiên tử thêm nổi giận.
Sài Thung cười lớn:
- An Nam biện bác thật giỏi. Triều đình bảy năm mở đại khoa một lần. Đứa trẻ mười ba tuổi còn đỗ trạng. Nhân tài có thua kém gì thiên quốc. Chẳng biết nhà vua có coi tôi như con nít không mà nói như vậy.
Đại loại các việc, không việc gì họ không tìm được cách thoái thác ngọt ngào. Nhưng phải công bằng - Sài Thung thừa nhận - Họ biếu dâng ta thật là hậu hĩnh. Ta đã đi sứ nhiều nước, chưa nước nào có lễ dâng sứ lớn đến như vậy. Song quả thực, cũng chưa có nước nào nội phụ lại dám cưỡng mệnh thiên tử như An Nam. Phen này vào tâu, ta cứ thực tình để hoàng đế phát binh, kẻo họ cậy thế ở xa cứ dây dưa lần lữa, khiến oai trời mất thiêng thì không còn ra thể thống gì nữa.
Sài Thung về tới Yên Kinh, đã dâng ngay biểu vấn an thiên tử. Và xin được diện kiến đức vua để trần tình các việc xứ An Nam. Nhưng Hốt-tất-liệt đã hạ chỉ: “Chờ tuyên triệu”.
Nhận thánh chỉ, Sài Thung lấy làm lo sợ. Vì y được các bạn đồng liêu cho biết: “Thiên tử đang cân nhắc: Nhật Bản, Chiêm Thành, An Nam, đánh xứ nào trước, hay cả ba xứ cùng một lúc?”. Do phân vân, nên thiên tử vấn kế bá quan.
Quan thái úy bèn tâu:
- Đất Phù Tang xa xôi, dân man di chưa biết lễ nghĩa. Dăm ba hòn đảo chơ vơ với số dân ít ỏi sống lẫn với cầm thú bõ gì thiên tử phải bận tâm. Vả đi lại khó khăn, quanh năm gió bão. Cuộc tiến binh của đại quân thiên triều vào đất ấy năm Giáp tuất (1274) đã bị bão sóng đánh vùi dập gần hết binh thuyền. Quân sĩ hiện nghe nói đến Phù Tang vẫn chưa hết kinh hoàng, vì thần biển tác oai. Còn An Nam là đất qui phục thiên triều từ lâu. Nay vô cớ cất quân vào cõi, sợ rằng ân chưa đến mà uy đã ra, lòng người không phục. Lại như nước Champa bé nhỏ, thường năm tiến cống thuần đồ phương vật quý lạ, như voi trắng, trầm hương, sừng tê, ngọc trai, yến huyết, họ giữ đúng đạo thần tử. Các nước đó đều nhỏ bé, nếu có chiếm được cũng chẳng ích gì. Hưng binh tàn hại sinh mạng lê dân, sao bằng sai sứ lấy điều họa phúc mà chiêu dụ, nếu họ không phục tùng thì ta đánh cũng chưa muộn. Còn như bây giờ, ta lấy cớ gì để cất quân?
Hốt-tất-liệt hầm hầm nổi giận, đập án quát:
- Thiên tử thế thiên hành đạo. Ý ta là ý trời. Tại sao còn phải hỏi cớ cất quân? Lũ man di, quân trưởng chúng nó nối đời ăn lộc ta, mà không đứa nào chịu vào chầu. Con cái chúng không một đứa nào tới làm con tin. Ta có việc lớn chinh đông, chinh tây không một nước nào chịu nộp quân, nộp lương. Đến mượn đường chúng còn không cho. Đạo thần tử như thế, há không lỗi sao? Ta vời chúng không được, để phải cắt quân, gặp bão gió, hàng ngàn chiến thuyền với hàng chục vạn sinh linh làm mồi cho biển cả. Ngót chục năm nay, lòng ta khôn nguôi thương nhớ đám binh sĩ vô tội. Ta thề phải băm nát đất Phù Tang! Còn lũ dòi bọ An Nam cũng chẳng hơn gì đám dân bất trị Phù Tang. Chúng dám ăn ở hai lòng, câu kết với lũ dơi chuột nhà Nam Tống. Nên mới xảy ra cuộc thảo phạt năm Đinh tị (1257). Ta đã thương tình gia ân, cho sứ sang dụ bảo nhiều lần, nhưng chúng chỉ khéo mồm van xin lần lữa. Thử hỏi, dối dân lừa thiên tử, thế không đáng trị tội sao? Lại nữa lũ hải tặc Champa, đã không dốc lòng thờ ta, còn dám ngang nhiên bắt sứ của ta. Thế còn chưa đáng tội chết sao?
- Khanh ! Viên thái úy kia – Hốt-tất-liệt trỏ mặt quan thái úy mắng - Ta đãi ngươi như đãi một kẻ sĩ. Ta không phân biệt ngươi là người Hán mà được cất đặt ở trên người Mông Cổ. Lộc ta ban cho ngươi thật là ưu hậu. Thế mà ngươi dám vặn bẻ ta: “ân chưa đến uy dã ra, lòng người không phục!”. Lòng người nào không phục, hay chính ngươi không phục ta? Đồ chó phản bội? - Pháp quan? Hốt-tất-liệt hét lên - Dẫn nó đi rồi đem đầu về cho ta!
Triều đình im phăng phắc, các quan nghe rõ hơi thở của nhau. Khi thiên tử đã nổi cơn thịnh nộ thì đến các gián quan cũng nem nép cúi đầu. Viên thái úy là một trong những đại thần nhà Nam Tống lập công đầu với Hốt-tất-liệt. Chính y đã bày kế cho Hốt-tất-hệt liên minh với nhà Nam Tống đánh Kim Ai tông. Và cũng chính y dâng kế khơi nước sông Hoàng Hà dìm chết hơn mười vạn binh Tống, khiến công cuộc bình định Trung Nguyên của Hốt-tất-hệt sớm hoàn tất. Nay y dâng lời can gián đâm vạ miệng; chỉ nằm phủ phục, không dám ngửa mặt van xin. Trong lòng y, nỗi hối hận trào dâng như thác đổ. Y hối hận vì đã dâng lời can không đúng lúc, hay hối hận vì trót theo giặc hại nước hại dân. Nước mắt y chảy đẫm cả hai cánh tay áo thụng, toàn thân y run lên như một con vật bị trúng thương - chờ chết.
Các quan trong triều không một ai bước ra can gián. Người Mông Cổ vừa khinh y là kẻ chim mồi chó săn, vừa ghen y được bề trên sủng ái. Người Hán khinh y là kẻ phản quốc, giết hại người đồng tông.
May thay, đang giữa lúc tính mạng quan thái úy ngàn cân treo sợi tóc, thì có một viên thị thần người Tây dương bước ra tâu:
- Muôn tâu thánh thượng, thần nghe nói bệ hạ đã hạ chiếu chinh phạt Champa. Y nói giọng mũi ồ ồ khó nghe. Hốt-tất- liệt phải nghiêng tai chú ý. Chính điều đó làm cho cơn thịnh nộ của nhà vua lui dần. Viên thị thần người Tây dương có nước da trắng như người quanh năm ở xứ tuyết. Y có chỉ mũi thẳng, nhọn, chuẩn đầu cao hếch lên, nom đẹp nhưng lộ khổng. Cặp mắt y xanh như màu nước biển, đôi đồng tử trong veo như mắt mèo. Tóc mềm xoăn, vàng óng như tơ. Y có cái tên hơi khó gọi, dù gọi theo âm Hán hoặc âm Mông Cổ cũng thế thôi. Phần nhiều, tên của người Tây dương không có nghĩa. Đọc đúng cái tên của ông ta lên, chỉ làm trò cười cho các đồng liêu. Vì thế thiên tử đã phiên ra và gọi ông ta là Phao-lồ.
( Đây ám chỉ Marco Polo người Ý sinh ở Venise (1254 – 1324). Có thể coi ông là một nhà thám hiểm. Ông đã tới Bắc Kinh, và ở lại đó phục vụ dưới triều đại Hốt-tất-liệt (Koubilay) 16 năm. Nhờ theo các đoàn quân viễn chinh của đế quốc Nguyên mà ông đã đi khắp Châu Á. Cuốn du ký (Le Livre de Marco Polo) của ông là một tài liệu vô cùng quý báu cho tất cả những ai muốn nghiên cứu về đế quốc Nguyên - Mông.)
Ông Phao-lồ nói tiếp - Dạ muôn tâu, sắp xuất binh mà chém đại thần, e không lợi. Xin thiên tử rộng tình xét lại. Vả chăng như chỗ thần được biết, quan thái úy có lỡ lời, nhưng cũng chỉ vì yêu kính chúa thượng mà chưa kịp lựa ý. Lại xét trước đây quan thái úy theo chúa thượng, lập được công lớn trong sự nghiệp diệt nhà Kim cũng như nhà Nam Tống, xin chúa thượng thương mà tha tội.
Nghe thị thần người Tây dương La Mã nói, Hốt-tất-liệt đã thấy nguôi nguôi. Nhà vua tự nghĩ: “Mà phải, nếu không có y, sao ta lừa nổi Kim Ai tông và Tống Lý tông”. Nghĩ vậy, Hốt- tất-liệt bèn nói:
- Nể mặt quan thị thần Phao-lồ, kẻ đã giúp ta được nhiều việc lớn, nên ta tha cho. Nhưng phải biết giữ mồm giữ miệng. Lần sau còn phạm phải, ta sẽ trị tội gấp đôi. Nhưng để răn dạy cho nước bề tôi bất kính, ta truyền nguyên soái Toa-dô thống lĩnh đại đội binh thuyền gồm một trăm hải thuyền và hai trăm năm mươi chiến thuyền, quân lấy tại các tỉnh Hồ Triết, Phúc Kiến, Hồ Quảng. Ta cho phép sung quân tất cả bọn tử tù (ngoại trừ các tội “mưu phản” và “bạn nghịch”) để chúng lập công chuộc tội. Lương thực, thuyền bè, khí giới đảo Hải Nam phải lo thu gom cung ứng cho quân viễn chinh. Đến Chà-bàn, Toa-đô nguyên soái phải bắt bằng được cha con Chiêm Thành quận vương về đây cho ta trị tội.
( Các triều đại Trung Hoa xưa từ Tống đến Nguyên thường ngạo mạn, chỉ công nhận vua các nước nhỏ làm quận vương. Họ thường phong các vua ta là: “Giao chỉ quận vương”, hoặc “An Nam quận vương”. Chỉ các triều đại nào của ta mạnh họ mới chịu phong là “An Nam quốc vương”.)
Tới đây, Hốt-tất-liệt đã tĩnh trí, thiên tử liền truyền:
- Phao-lồ, khanh là người thích du ngoạn xem xét con người, sản vật, thiên nhiên, ta cho khanh đi theo Toa-đô vào Chiêm Thành không phải để làm việc quân, mà làm các điều khanh ham thích. Ghi chép được gì, khi về khanh trình cho ta xem.
Marco Polo cho đây là một đặc ân của Hốt-tất-liệt, viên thị thần này bèn rập đầu theo kiểu Trung Hoa để tạ ơn.
Khi được biết mọi điều kể trên, Sài Thung rất phân vân. Cứ theo như sự thấy biết của y thì Chiêm Thành tuy có tiến cống nhà Đại Nguyên, nhưng vẫn quy phụ An Nam. Hai nước này có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu đánh thì phải cùng lúc đánh cả hai nước, để chúng đầu đuôi không ứng cứu được cho nhau, nam bắc không thông được tin tức cho nhau. Nếu chỉ đánh một Chiêm Thành không thôi, chưa chắc đã là thượng sách.
Sài Thung tuyệt nhiên không nhớ một chút gì về việc vua tôi nhà Trần nhờ y tâu với thiên tử nhà Đại Nguyên, thương tình tha cho mọi việc. Y quên rằng những vàng bạc châu báu với biết bao đồ quý hiếm y được dâng biếu, là để trả cái công y làm cho việc binh chậm lại. Thế mà giờ đây, y lại muốn hối thúc cho cuộc chiến sớm được khai mào. Y đã nói ý đồ của mình với một số bạn đồng liêu, nếu như nay mai thiên tử tuyên triệu, y sẽ dâng kế nam chinh.
Việc ấy tuy chưa đến tai thiên tử, nhưng lại đến tai Yến Ly. Ta còn nhớ Yến Ly, một nữ tì của An Tư công chúa sinh trưởng trong một gia đình quyền quý ở Hàng Châu. Khi nhà Tống mất, Yến Ly theo cha mẹ chạy loạn. Giữa đường, gia đình lạc nhau. Nàng phiêu bạt sang Đại Việt, rồi tình cờ An Tư xin được nàng về hầu hạ. Thực tình là để An Tư có bầu có bạn. Hai người tính nết trái ngược nhau: An Tư hiếu động, tinh nghịch, thích các trò cưỡi ngựa, bắn cung, thích giao du với các bậc hào kiệt. Trái lại, Yến Ly dịu dàng, cầm, kỳ, thi, họa, dung, công, ngôn, hạnh không ngón nào nàng không thông thạo. Từ ngày đôi trẻ có nhau, ngoài là tình thầy trò, chủ tớ, trong là tình bạn. Họ gần gũi nhau, yêu mến nhau, người nọ bổ trợ cho người kia. Ví như Yến Ly có thêm được tính xông pha, bạo dạn, An Tư biết thêm các việc thêu thùa, đàn địch. Tức là một người thì cứng rắn thêm lên, một người lại dịu dàng vi tế, đó là các đức tính trước khi gặp nhau họ chưa có. Yến Ly thực quả không phải tên nàng, mà chính là Chiêu Quốc vương căn cứ vào cảnh ngộ nàng đặt cho tên ấy. Vương ví nàng như một con chim én lìa đàn. Tên thật nàng là Triệu Quế Anh, dòng dõi Triệu Hổ ( nhà thơ nổi tiếng đời Tống). Triệu Quế Anh tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nàng tự biết mình là một người dân vong quốc. Và nàng biết rất kỹ kẻ thù của đất nước nàng là lũ giặc Mông Cổ. Nay chính bọn ấy cũng đang lăm le thôn tính Đại Việt. Nếu mai đây can qua khói lửa, nàng thật không còn chỗ nương thân. Quế Anh biết các chuyện căng thẳng giữa hai nước, một phần do An Tư nói lại về các áp đặt của nhà Nguyên đối với Đại Việt. Mặt khác, qua các cuộc theo công chúa đi du ngoạn những nơi danh thắng trong nước, Quế Anh tận mắt thấy ở bất cứ nơi nào, người ta cũng luyện võ, luyện binh. Dân binh tập tành, vận chuyển lương thảo đông như hội. Không khí hừng hực như một bể dầu sôi.
Một bữa Yến Ly ngồi đối diện với Trần Hưng Đạo, ông bảo :
- Trước hết phải nói, ta với con cùng có chung một kẻ thù. Con có biết kẻ thù đó là ai không?
- Dạ, bẩm vương, Yến Ly e lệ đáp - Bẩm vương, đó là bọn Mông Cổ - Bọn nhà Nguyên đấy ạ?
- Đúng, bọn Mông Cổ, bọn nhà Nguyên, Hưng Đạo xác nhận. Đức ông vuốt chòm râu đốm bạc, ông nhìn Yến Ly với vẻ yêu thương trìu mến như nhìn đứa con út của mình, với giọng trầm thoảng, vương lại nói - Can qua giữa hai nước Nguyên - Việt là điều không tránh được. Hốt-tất-liệt không cho đất nước ta sống cuộc sống yên bình. Hoặc là phải làm kiếp ngựa trâu cho chúng, hoặc là phải chống lại chúng ít nhất là bằng một cuộc chiến tranh. Yến Ly? Ta thương con đã mất nước, lại mất nhà.- Dừng lại, như để cho cô bé có thể hiểu được lời mình, Hưng Đạo lại tiếp - Thường là như vậy, nước mất là nhà tan. Ta không muốn con khổ một lần nữa vì nạn binh hỏa. Ta đã cho người dò tìm về những người thân thích của con ở Hàng Châu, và cả ở Yên Kinh.
Yến Ly mắt sáng long lanh, nàng kinh ngạc đến ngỡ ngàng. Xúc động quá, trái tim nàng đập gấp như một con chim bị nhốt đang thúc mạnh vào lồng, phá phách để tìm lối ra. Và nơi tròng mắt nàng tự nhiên thấy cay cay. Lệ trào. Nàng òa khóc.
Đại vương ngồi nhìn nàng khóc, trong lòng ông đầy niềm cảm thông đau đớn. Ông nghĩ đến cuộc xâm lăng, tức là cuộc chiến tranh của giặc Mông - Thát dội lên đầu biết bao nhiêu quốc gia dân tộc. Cuộc chiến tranh ấy kéo dài từ sáu, bảy thập kỷ qua vẫn chưa hề có đấu hiệu chấm dứt. Chúng tàn sát không biết bao nhiêu sinh linh. Nhân loại bị dìm trong lửa, máu. Tất cả các nẻo đường quân Mông - Thát tràn qua như thần dịch hạch đi gieo cái chết. Trời, một kẻ hung bạo như Hốt-tất-liệt, sao thượng đế lại trao cho y nắm giữ một sức mạnh ghê gớm thế. Chẳng lẽ, y là “con trời” thật sao? Sức mạnh ở trong tay người thiện, là hạnh phúc cho mọi người. Nhưng trớ trêu thay, người thiện hầu như không có sức mạnh, bởi họ không biết kết liên lại với nhau được để thành một lực lượng. Theo ông, chỗ yếu nhất và cũng là sự ngu khờ nhất của người thiện, là họ coi mình như một thứ chân lý, tự nó là sức mạnh rồi. Chính vì thế mà họ trở thành kẻ yếu. Đức ông cứ mải miết với những điều thiện, ác ở trong đầu, dường như vương quên cả Yến Ly đang sụt sịt. Chợt tiếng khóc của nàng vang lên làm vương sực tỉnh. Vương nhìn đăm đắm vào khuôn mặt Yến Ly, như một tấm gương lóa nước. Sự trong trắng đến cao khiết của trẻ thơ như thức tỉnh trong ông một sức mạnh. Vương tự nghĩ “Chẳng lẽ những đứa bé kia, và cuộc sống yên bình này đều là kẻ thù của Hốt-tất-liệt cả sao? Nhân loại trong sáng y hệt những thiên thần sống rải rác, tựa như một bó đũa vứt tung tóe mỗi nơi mỗi chiếc. Phải làm thế nào cho từng chiếc đũa ép sát vào nhau thành bó, mới có thể có sức mạnh”.
Vương đặt nhẹ bàn tay lên mái tóc Yến Ly và nói:
- Người của ta đã đến Hàng Châu, không có tin tức gì về cha mẹ con đâu. Ngôi nhà hiện vẫn còn. Lão bộc cùng một số kẻ hầu hạ nay đã về lại Triệu gia trang. Chỉ có nhũ mẫu của con lên Yên Kinh cùng với người quản gia. Họ đã mở một ngôi hàng mua bán kim hoàn mang tên “Bảo Kim” ngay cạnh lâu đài “Ngoạn Nguyệt” của nhà con. Ta chưa được biết đích xác, song thân của con có cư ngụ trong lâu đài, hay còn tá túc một miền nào đó trong nước, để chờ cho sóng yên biển lặng. Người của ta ở bên đó, nằn nì mãi mới mua được một chiếc gia huy của nhà con, bày nhưng không bán tại cửa hàng “Bảo Kim”. Con thử xem vật đó có khớp với vật con đang có không ?
Yến Ly đón chiếc gia huy từ tay Hưng Đạo, cô gỡ chiếc đeo ở cổ ra so sánh, tất cả đều giống nhau. Kể cả ba chấm đột sống ở phía sau, tức là khi đã đúc hoàn tất rồi, trước khi mỗi người được phát đeo thì tự tay phụ thân cô đóng dấu sống đó một cách kín đáo ở mặt sau.
Cầm tấm gia huy trong tay, Yến Ly khóc ròng. Phần thương song thân không biết còn mất ra sao, phần tự xót nỗi mình bơ vơ nơi đất khách. Rồi nàng tự hỏi: “Vì sao đại vương lại tốn công nhọc sức tìm kiếm gia đình ta vậy? Việc này có ẩn ý gì không?” Nhưng rồi nàng lại tự trách mình đa nghi. Nàng nhìn ngắm gương mặt đại vương, một gương mặt phương phi, trung hậu và toát lên một phách lực anh hùng, nom chẳng khác gì Quan Công. “Nghi ngờ một người như thế là có tội”.
Hưng Đạo vương vẫn không ngừng xem xét các nét vẻ đổi thay trên gương mặt Yến Ly. Một người như ông, làm gì không “đọc” được nỗi lòng con trẻ. Đại vương chậm rãi nói:
- Ta thương con, như ta thương con ta. Như ta thương tất cả những đứa trẻ trên thế gian này bị Hốt-tất-liệt tàn hại. Ta đang nghĩ: phải cứu lấy tuổi thơ của các con. Việc ấy không thể cầu xin ở Hốt-tất-liệt - Con biết Hốt-tất-liệt là ai chứ ? Vương đột ngột hỏi Yến Ly. Nàng gật đầu - Vương lại tiếp- Đã không cầu xin y được thì phải chống lại y. Muốn chống lại y phải có sức mạnh của nhiều người, nhiều quốc gia. Vương hơi cúi xuống giọng buồn buồn - Ta tiếc cho nước Trung Hoa của con - một nước có nền văn hiến cao vào bậc nhất hoàn vũ, đất rộng, người đông, giàu có không xiết kể mà ươn hèn gục ngã, đến nỗi phải làm nô lệ cho bọn Mông-Thát. Nhục quá! Đây không chỉ là sự tủi nhục của riêng dân tộc con. Mà còn là sự tủi hổ chung cho các quốc gia, các dân tộc sống trong sự chia rẽ, sự ích kỷ. Cũng còn là sự tủi hổ của những người tốt, người thiện cứ dửng dưng trước tội ác của kẻ khác gây ra, và trước sự đau khổ bất hạnh của người khác. Ta thường hay nghĩ đến sức yếu kém vô dụng của từng chiếc đũa vứt bừa bãi khắp nơi, với sức mạnh thần thánh của cả một bó đũa được chung góp lại từ mỗi chiếc mỏng manh - Yến Ly! Ta biết con đang nghĩ gì. Hưng Đạo nói và nhìn thẳng vào cặp mắt trong veo ngơ ngác của nàng.
Ta giúp con trở về quê hương. Ta không muốn con phải chia xẻ nỗi bất hạnh của con dân Đại Việt chúng ta. Vậy một trong hai nơi đó, con muốn về đâu, ta sẽ cho người dẫn con về đến nơi đến chốn. Đừng có nghi ngờ gì ta. Trong việc giúp con, chúng ta chỉ có tốn kém, thậm chí nguy hiểm, chứ không có lợi lộc gì. Ta khuyên con nên về lại quê hương, nhưng nếu con thấy không còn gì để luyến nhớ cái quốc gia chỉ có sự chia rẽ đến hèn yếu ấy, mà con muốn ở lại Đại Việt, ta sẽ cho con về bầu bạn với An Tư công chúa. Đại Việt ta tuy là một nước nhỏ, nhưng lòng nhân nghĩa thì không có giới hạn.
Nghe đại vương nói, thuần những điều làm cho con người thêm cao phẩm giá. Nhưng cũng có một cái gì đấy khơi dậy từ đáy sâu nhân cách của con người. Và tuy có mạo hiểm, Yến Ly cũng mạnh dạn thưa:
- Bẩm đại vương, nghe đại vương phân giải, con thấy Người thực sự muốn cứu vớt con ra khỏi cảnh máu lửa hiểm nguy. Tiện đây, con xin nói thêm để đại vương dạy bảo - Ban nãy, con nghe đại vương nói tới tiệm kim hoàn “Bảo Kim”. Không biết có ý gì ở đây không, chứ “Bảo Kim” là tên thân phụ con đặt cho con ở tuổi chưa thôi nôi. Chẳng là thuở mới sinh con ra, khi lấy xong cho con lá số tử vi, phụ thân con buồn lắm, đóng cửa suốt ba ngày không ra ngoài. Và dặn bảo mọi người gọi con bằng tên đó, thay vì tên Quế Anh đã đặt từ trước khi con được sinh ra. Và suốt từ nhỏ cho tới khi con bị lạc, phụ thân con yêu chiều, dạy bảo chăm sóc dư thừa sự chu đáo Nhiều lúc cảm nhận như phụ thân con chỉ sợ để rơi mất con ở đâu đó.
Qua sự xác nhận của Yến Ly, Hưng Đạo hiểu ngay phụ thân Yến Ly vẫn còn sống. Và việc lấy tên hiệu “Bảo Kim” với chiếc gia huy bày biện, chính là để kiếm lại con gái mà ông hết hy vọng dò tìm.
Song, Hưng Đạo ngẫm nghĩ, cũng có thể đây là một cái bẫy, một âm mưu gì đó đối với Triệu gia. Đoạn vương lại hỏi :
- Vậy chớ ý con ra sao? Con quyết như thế nào, ta cũng chiều con. Nhưng nếu việc chậm quá, ta e không còn kịp được nữa.
Sau một hồi suy nghĩ lung lắm, thực tình Yến Ly không biết quyết thế nào cho phải. Nàng nghĩ: “Nếu song thân còn mà ta không về, tức ta là đứa con bất hiếu. Ta nương nhờ tá túc ở đây trong cảnh đất nước thanh bình, ta được nuôi nấng đối xử như một khách quý, như một người con ruột thịt. Vậy mà bây giờ, nước đang sắp có họa xâm lăng, ta lại bỏ đi, ắt người sẽ khinh ta là quân bất nghĩa”. Trong lòng Yến Ly đang có sự giằng xé giữa về và ở. Bỗng nàng nhớ, vừa xong đại vương có nói: “... Tủi hổ cho những người tốt, người thiện cứ dửng dưng trước tội ác của kẻ khác gây ra, và trước cả sự khổ đau, bất hạnh của người khác, của dân tộc khác...”. Nàng chợt nghĩ: “Tại sao ở Yên Kinh, ta lại không thể giúp gì cho Đại Việt được?” Yến Ly đem nói hết sự tình nàng suy nghĩ với Hưng Đạo. Vương mừng lắm. ông cầm tay nàng cảm tạ:
- Thôi được, mọi việc sẽ liệu sau, trước mắt ta lo cho con về. Nếu như con có lòng nghĩ đến chút tình khi lưu lạc, ta chỉ xin con hai điều:
- Một là, nếu con có gặp người của ta ở Thăng Long đang sống trên đất Yên Kinh, con hãy coi như chưa gặp gỡ quen biết gì.
- Hai là, nếu có gì cần kíp, người của ta phải đến nhờ con, mà không có gì nguy hại, mong con giúp cho.
- Dạ, ơn trời bể đối với Đại Việt, đối với đại vương con dẫu có kết cỏ ngậm vành cũng chưa trả được, huống chi vài việc nhỏ mà đại vương nói.
Yến Ly nhớ lại tất cả những ngày sống trên đất Đại Việt và những lời Hưng Đạo vương dạy dỗ. Và cho tới một hôm Yến Ly thấy Sài Thung ghé tiệm “Bảo Kim” đòi gặp phụ thân nàng là bậc đại khoa, gặp thời loạn, ông không ra làm quan. Ở ẩn tại nhà, kíp khi quân Mông Cổ đánh tràn khắp nước, ông hưởng ứng chiếu cần vương mộ quân, đánh giặc. Nhưng triều đình nhà Tống nhu nhược, yếu hèn, chia rẽ lại có cả một quá khứ điếm đàng hưởng lạc, bóc lột tới tận xương tủy, nên dân tình oán ghét. Vì thế, vua tôi nhà Tống không huy động được sức mạnh của toàn dân vào việc chống giặc ngoại xâm. Triệu tiên sinh lưu lạc mãi rồi mới trở về lại Yên Kinh. Ông cho gia nhân mở tiệm kim hoàn, cũng chính là để dò tìm Quế Anh. May thay, người của Hưng Đạo vương đã sớm nhận ra tung tích. Và nàng được trở về đoàn tụ. Triệu tiên sinh cũng ghi lòng tạc dạ nghĩa lớn của Đại Việt, và các vương hầu triều Trần, đối với cha con ông. Nhiều đêm ông trăn trở về ơn sâu Đại Việt, và sự miệt thị từ nhà Tống xưa kia tới nhà Nguyên hiện nay đối với quốc gia nhược tiểu này. Ông tự nghĩ, nếu có lẽ công bằng trong trời đất, thì phải tôn vinh dân tộc đó là đại hùng, đại nghĩa.
Bữa Sài Thung đến gặp tiên sinh, cái chính là để bán một ít đồ quý vừa đem ở Đại Việt về. Nhân tiện y kể lại một số việc trong triều, và sở kiến của y là muốn thiên tử khởi binh đánh Chiêm Thành và Đại Việt cùng một lúc, khiến hai kẻ kia không ứng cứu cho nhau được. Tin ấy lọt vào tai Quế Anh. Và ngay lập tức được chuyển đến cho Đỗ Vỹ, người của. ta đang làm chủ một tiệm kim hoàn lớn tại Yên Kinh. Đỗ Vỹ mà mọi người ở Yên Kinh được biết thì tiên sinh quê tận vùng Quảng Tây, tức là người miền nam Trung Quốc. Hiệu kim hoàn của Đỗ Vỹ có mang biển hiệu “Quảng Hưng Long”. Ngoài ba chữ đó còn vẽ thêm một con rồng đang bay lượn ngoằn ngoèo trên mặt bảng. Và chủ nhân thường được mọi người tôn xưng thật là kính quý: “Quảng tiên sinh”. Trong nhà tiên sinh có mấy người thợ chế tác kim hoàn, cũng là chỗ thân tình cả. Hiệu của tiên sinh mở chưa lâu, nhưng được tiếng khắp kinh thành. Khách đến mua bán nườm nượp. Hàng ngày tiên sinh chỉ nhận tiếp đón các loại tao nhân mặc khách. Thường là khách đến khoe một món đồ quý hiếm đã có từ thời Tây Chu, Đông Chu hoặc Hán, Đường. Chủ khách say sưa ngắm nghía, tán tụng, tìm ra những vẻ đẹp ẩn giấu đằng sau màu men, dáng vẻ và phong cảnh phác họa trên món đồ, nếu là loại gốm, sứ. Hoặc những nét chạm trổ tài hoa về các tích điển dân gian, nếu là các đồ vàng bạc. Rồi chủ khách làm thơ xướng họa thật là tâm đắc. Cũng có khi khách chỉ đến xem (chứ không mua) một vài món đồ quý lạ, mà chủ mới săn tìm mua được từ Đại Việt, Champa, hoặc Tiêm-la, Chân-lạp...
Đỗ Vỹ nhận được tin Sài Thung định tráo trở. Một mặt y nhận lời với nhà Trần để tâu lên Hốt-tất-liệt, sao cho cuộc chiến không nổ ra. Thật ra Đại Việt cũng hiểu, với tham vọng của Hốt-tất-liệt thì nạn binh hỏa không thể không nổ ra. Nhưng nhà Trần mong muốn nó nổ ra chậm hơn. Đằng này, Sài Thung lại mưu toan thúc đẩy cho nó sớm nổ ra.
Đúng như Hưng Đạo vương tiên liệu và thường răn dặn: “Bọn giặc Mông Cổ, dẫu sao cũng chỉ là một đám võ biền. Điều ta quan ngại là bọn Hán gian làm tay sai cho Mông Cổ. Bọn này mưu mô thâm độc, ác hiểm khôn lường. Con luôn nhớ lấy mà đề phòng”.
Thu thập tin tức xong, Đỗ Vỹ bèn cho người gửi một phong thư dán kín đến tư dinh của quan thượng thư bộ lễ Sài Thung. Vừa lúc Sài Thung đi dạo về thì nhận được chỉ “Tuyên triệu” của Hốt-tất-liệt cùng lúc với phong thư không có địa chỉ người gửi. Đọc xong chỉ “Tuyên triệu”, Sài Thung bèn mở phong thư kia ra. Quan thượng thư vô cùng ngạc nhiên thấy có một bài thơ xướng họa của mình với tướng quốc thái úy Trần Quang Khải. Trong đó, bài “Tống Sài Trang khanh” của Quang Khải, lời lẽ thân thiết quý mến, khiến người đọc phải ngờ về mối quan hệ giữa hai người. Sài Thung đã đốt đi và quên đi từ khi bước chân qua biên ải. Còn bài “Lưu biệt” ta làm, gọi là đáp lại thịnh tình và lễ hậu của vua tôi nhà Trần cho họ đỡ ngờ. Bài này mà đến tai thiên tử, chắc là bị quở trách. Vì rằng sứ thiên triều không được phép hạ mình thân thiện với tứ di. Bài “Lưu biệt”, Sài Thung ngờ ngợ về nét chữ. Vẻ ngoài tự dạng rất giống chữ ta - Nhưng những nét phảy, nét móc của ta không đẹp mà sắc như loại chữ này. Khen cho kẻ nào bắt chước, kể cũng đã khéo. Sài Thung cứ băn khoăn: “Không biết kẻ nào gửi cho ta của nợ này để làm gì?” Lòng nghi hoặc, Sài Thung bèn giơ phong thư lên soi. Thấy rõ bì thư dầy tới hai lần giấy và có nét chữ hiện lên. Quan thượng thư nhẹ gỡ theo nếp hồ dán mà sao tay cứ run lên bần bật. Mở ra thấy có mấy hàng chữ sau đây: “Nhược bằng Sài sứ giả cố tình nói xấu Đại Việt trước thiên tử, thì chúng tôi buộc phải tâu lên người chút hậu tình mà sứ giả đã để lại Đại Việt qua các bài thơ xướng họa, cùng các đồ lễ lạt quà biếu sứ giả đã nhận ở Thăng Long... “.
Đọc xong lá thư, mặt Sài Thung trắng bệch ra. Y thầm nghĩ: “Bọn An Nam láo xược dám dọa nạt cả ta. Lớn mật hơn nữa, chúng còn dám hoạt động gián điệp trên đất của thiên tử”.
Tuy nhiên, hôm sau vào triều kiến Hốt-tất-liệt, y cũng không dám nói những điều gì khác mà y đã hứa ở Thăng Long. Nhưng trong lòng, y rất căm uất, vì như thế có nghĩa là y đã thấp mưu thua trí vua tôi nhà Trần. Việc này mà bị cáo giác hẳn y không thể thoát chết.
Lại nói đến công việc ở Thăng Long và toàn cõi Đại Việt, sau cuộc nghị hội các vương hầu, tướng lĩnh ở Bình Than, việc binh bị được thúc đẩy gia tăng. Các vương hầu đều tăng thêm số dân binh, tinh binh. Khắp nước mở hội thi võ. Toàn dân tập tành hoặc tham gia vào việc vận lương, lập các chiến hào, chiến lũy, chuyển các kho lương vào sâu trong rừng, trong các hang núi.
Một hôm, đang xem các tướng bày trận đón đánh quân kỵ của giặc, bỗng có người tới dâng Hưng Đạo vương một phong thư. Nhìn dấu ám hiệu, đại vương biết ngay thư từ Yên Kinh. Vương bèn lên ngựa trở lại quân doanh mở thư đọc:
Bẩm vương.
Đến đầu tháng Tý năm Nhâm ngọ này ( Tức là tháng 11 âm lịch, tương ứng với cuối tháng 12 năm 1282), Toa-đô sẽ dẫn binh thuyền xuất phát từ Quảng Châu để đánh Chiêm Thành... “. Đại vương cau vừng trán: “Vậy là Chiêm Thành đã đánh nhau với Toa-đô từ hơn hai tháng nay - Sao ta không được tin Đạo Tái?” Vương có vẻ hơi sốt ruột.
Đọc xuống phần dưới thấy ghi: “Quân Mông Cổ rất thiện chiến. Họ có thể vừa phóng ngựa phi nước đại ngoái người lại bắn cung, bách phát bách trúng. Ưu việt nhất của họ vẫn là kỵ đội. Trăm quân kỵ quay vòng, có thể bọc được vạn người, ngàn quân kỳ tản ra, có thể dài trăm dặm... Địch phân tức phân, địch hợp tất hợp. Cho nên kỵ đội là ưu thế của họ. Hoặc xa hoặc gần, hoặc ít hoặc nhiều, hoặc tụ hoặc tán, hoặc hiện hoặc ẩn. Họ đến như rơi từ trên trời xuống, họ đi nhanh như chớp giật... Phép phá địch của họ, trước hết là lên chỗ cao nhìn ra xa, xem địa thế, xét địch tình. Thừa cơ địch rối loạn là lúc bắt đầu giao phong. Thường dùng kỵ đội xông thẳng vào trận địch. Mới xông vào mà địch đã núng thì không kể nhiều hay ít, Ồ ạt tiên lên, địch tuy chục vạn, cũng không thể đương được. Nếu địch không núng, thì đội phía trước tản ngang ra, đội tiếp theo xông lên, nếu không vào được thì đội sau nữa lại tiến lên như vậy. Họ thắng thì rượt đuổi theo giết rất tàn bạo. Họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không kịp. Quân Mông Cổ có sở trường đánh vu hồi. Họ thường tránh thực đánh hư, dụ địch ra khỏi căn cứ mà tiêu diệt. Nay họ lại học thêm được cách đánh thành của người TrungQuốc và việc chế dùng các loại võ khí của người Tàu. Quân Mông Cổ có sức khỏe phi thường và sức chịu đựng dẻo dai. Họ ăn ngủ ngay trên mình ngựa mà chuyển quân suốt ngày đêm. Nhưng họ vẫn có chỗ yếu. Người Mông Cổ không chịu được khí hậu ẩm thấp phương nam, dễ gây các bệnh viêm nhiệt, mệt mỏi rã rời, rồi các bệnh lở ngứa phát sinh. Ngựa Mông Cổ sợ nhất sông sâu, đầm lầy, rừng rậm, đường nhỏ hẹp quanh co gai góc, dây leo chằng chịt. Cỏ tươi xen lẫn cỏ hôi, ngựa Hồ thà nhịn đói chứ không ăn. . . “.
Đọc hết bức thư, Hưng Đạo thầm khen Đỗ Vỹ: “Vậy là con đã am tường nhiều về binh pháp. Con cho ta biết quá nhiều về những điều ta cần biết về kẻ địch. Tất cả chỗ yếu, chỗ mạnh của đội quân làm cho khắp hạ giới đều kinh hoàng này nhờ con mà ta có được. Ta sợ nhất khi giao tranh với quân thù mà chưa biết gì về chúng. Có nhẽ Đại Việt ta kình chống được với giặc dữ, là nhờ ở các con em can đảm dám xông pha vào tận hang ổ của giặc để dò tìm về chúng. May thay !”
CHƯƠNG 14 :

Từ Đại hội Bình Than ra về, gần tới bến đò sông Thiên Đức, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản chia tay Hoài Nhân vương Kiện. Hai trang thiếu niên nắm tay nhau nghẹn ngào, Quốc Toản nói:
- Hứa với anh, nhất định tôi sẽ lập một đội tinh binh quyết sống mái với giặc Thát, để cho cái ông Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc ấy thấy rằng, non sông xã tắc là của muôn dân, mọi người, mọi nhà đều có trách phận giữ gìn, chứ không phải chỉ có riêng các vương hầu quyền cao chức trọng được độc chiếm quyền yêu nước đâu.
Vương Kiện vẫn còn chưa hết bực mình về việc người ta coi thường bọn thiếu niên, nắm chặt tay Quốc Toản nói:
- Noi gương anh, tôi cũng xin song thân cho lập đội gia binh để cùng nhau giết giặc Thát. Chỉ hiềm sức chúng mình còn mảnh quá.
- Việc ấy không lo. Chúng ta đang sức lớn. Anh không thấy sao, đức Phù Đổng xưa mới có ba tuổi cũng chỉ vì khát vọng yêu nước thương dân muốn phanh thây xé xác quân thù, nên trời đã cho thêm sức mạnh. Trần Quốc Toản nói rồi sá Vương Kiện một sá - Hẹn gặp nhau ngoài chiến địa! Dứt lời, Toản ra roi vút ngựa phi nước đại.
Cho ngựa vào tầu rồi Quốc Toản lên nhà đại bái chào mẹ.
Thấy con về, phu nhân vội buông kim chỉ đứng dậy. Quốc Toản chạy ào vào nhà, nắm lấy hai vai mẹ:
- Mẹ ngồi xuống đi. Mẹ gầy quá, con thật có lỗi nhiều với mẹ. Chợt nhìn xuống thúng khâu, Quốc Toản liếc thấy chiếc áo mới bữa trước ở nhà thi vật, chàng bị lão quản gia bấu rách xoạc cả một bên vai - Mẹ lại vá áo cho con đấy à. Hứa với mẹ, từ nay con sẽ ở trần tập luyện để khỏi làm phiền lòng mẹ, lại đỡ tốn vải.
Phu nhân thở dài.
- Nhà ta đâu đã đến nỗi thiếu để con phải mặc rách. Mẹ định vá lại cho mấy nông nô mặc đỡ. Họ làm lụng sương nắng, mặc cái gì chả được.
Nhìn tấm áo vóc đại hồng màu đã phai bạc, được mẹ vá bằng miếng vải thô màu chàm sẫm, tựa như phẩm cấp một nhà tu hành, Trần Quốc Toản thấy ngồ ngộ:
- Thưa mẹ, con sẽ mặc áo này ra trận.
- Không được con ơi! Phu nhân giẫy nảy lên. Ra trận, con phải vận phẩm phục uy nghi của một vị tướng, đấy là thể diện quốc gia, không được tùy tiện, giặc nó khinh.
- Ôi, mẹ ơi, con thích mặc tấm áo này ra trận, vì lúc nào con cũng yên tâm có bàn tay mẹ che chở.
- Con tôi! Phu nhân vừa nói vừa vuốt xuôi hai vai Quốc Toản. Bà phải với, vì bà chỉ cao tới ngực cậu con trai mười sáu tuổi Như chợt nhớ ra, bà hỏi:
- Việc nước thế nào con? Đức vua và các vương hầu bàn tính ra sao? Con kể mẹ nghe đi. Mắt phu nhân có vẻ mơ màng - Chao ôi trong thôn ấp đinh tráng phấn khích lắm, ai cũng muốn xung quân đánh giặc Thát.
Sau khi thuật lại mọi điều xảy ra trong Đại hội Bình Than với tất cả sự hậm hực, Quốc Toản đắn đo mãi mới dám hé lộ một ước muốn của mình:
- Con xin phép mẹ cho lập một đội tinh binh của thái ấp nhà ta.
Sau một phút cân nhắc, phu nhân đáp:
- Liệu có được không con? Nếu thân phụ con còn sống chẳng nói làm gì, kể như hồi năm Đinh ty (1257) đấy, cha con với đội gia binh đã lập nên công lớn, khiến bọn Thát-đát phải kinh hồn tháo chạy. Mẹ chỉ sợ con còn nhỏ tuổi quá mà đứng đầu ba quân, trước hết chưa đủ uy để sai khiến, sau nữa là triều đình chắc gì đã cho đám vị thành niên ra trận. Còn như việc tốn kém mẹ không có ngại. Đấy con xem, vâng mệnh triều đình, nhà mình phải xén tới non nửa phần điền sản và gia nô cho họ được tự ý làm ăn rồi. Vì nước, nếu có phải cung hiến cả gia sản, mẹ cũng vui lòng. Chỉ tiếc là mẹ yếu quá, không làm được các việc như xưa kia Linh từ Quốc mẫu đã làm.
( Linh từ Quốc mẫu tức bà Trần Thị Dung, vợ Thái sư Trần Thủ Độ. Khi giặc Mông - Thát tràn vào, bà đưa con cái các nhà hoàng gia đi sơ tán. Bà còn lo mua tàng trữ vũ khí, lương thực, tiếp tế cho quân.)
- Thưa mẹ, con tuy còn nhỏ tuổi, nhưng người cũng đã lớn, chứ không như bọn con nít. Vả lại, việc quân có phép, mẹ đừng lo con không sai khiến được. Tuy nhỏ tuổi, nhưng con cũng có tham bác binh pháp các đời. Lại gần đây con có nhờ chép được ít thiên trong “Hưng Đạo binh pháp”, có thể ứng dụng ngay được trong quân. Điều mẹ lo là con đang trong tuổi vị thành niên, triều đình không cho ra trận. Nhưng thưa mẹ, có phải lập tức con ra trận đâu. Giặc đã đến đâu mà đánh. Con nghĩ phải luyện binh từ bây giờ cho thật tinh thông, để sẵn sàng chờ giặc. Tới lúc ấy, chắc con cũng đã tới tuổi thành niên. Con thấy đức Hưng Đạo cùng hai vua và các đại thần, đều bàn tính làm thế nào để cuộc chiến chậm nổ ra, cho ta còn kịp lo việc binh, lương. Dạ thưa mẹ, việc này phải khôn khéo lắm mới qua được mắt giặc. Vậy mẹ khỏi lo con cứ mãi ở tuổi nhỏ này, mà cho dù vị thành niên đi nữa, cũng đánh được giặc. Đức Phù Đổng xưa mới có ba tuổi, cũng phải nhảy ra khỏi vành nôi mà đánh giặc thì sao? Con chắc là triều đình không nỡ bắt đám vị thành niên ra trận, chứ triều đình không cấm. Ai lại đi cấm nhân dân đánh giặc, có chăng thì cấm bọn hèn nhát theo giặc phản lại giống nòi.
Nghe con nói, phu nhân cảm thấy mát lòng mát dạ. Vì rằng Trần Quốc Toản, đúng là tuổi còn nhỏ, nhưng chí đã lớn Phu nhân thật yên tâm. Rõ là hổ phụ sinh hổ tử. Bà liền cho gọi viên quản gia vào bàn việc lập đội gia binh.
- Bẩm phu nhân, người gọi con chẳng hay có việc gì dạy bảo - Viên quản gia cúi lạy.
- Ta miễn lễ. Mời ông ngồi. Có việc gấp cần bàn với ông. Phu nhân đẩy cơi trầu về phía viên quản gia - Ông nhai một khẩu cho ấm.
Viên quản gia lấy tay mở miếng trầu ra xem đã vừa vôi chưa, ông nói:
- Bẩm phu nhân năm nay rét sớm. Mới tháng mười mà trời đã giáng sương giá. Vụ chiêm này chắc lại bội thu.
- Ông xem đám nông phu từ ngày cấp ruộng đất cho ra ở riêng tới nay, họ có làm được đủ ăn không?
- Bẩm phu nhân sao lại gọi là đủ ăn. Phải nói họ dư dật. Dư dật nhiều lắm ạ. Họ biết ơn phu nhân và công tử không kể xiết.
- Đấy là ơn của triều đình chứ ơn gì ta. Ta nghe nói sở dĩ có mệnh này là do đức Hưng Đạo dâng “Phú quốc cường binh sách”,
- Dạ bẩm phu nhân đúng thế đấy ạ. Khởi thủy là từ đức ông Trần Hưng Đạo sau khi kiến tạo xong “Phú quốc cường binh sách”, đã cho làm thử ở thái ấp An Sinh, rồi lan sang thái ấp Tịnh Bang của Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung. Thấy hai ấp đó dân được hưởng lộc của các vương trở nên no ấm, phấn khích. Việc binh, việc lương đều dễ dàng, triều đình liền xuống chiếu cho cả nước cùng làm.
- Chuyện đó mọi người đều biết, đều đã làm cả rồi. Hôm nay có một chuyện khác bàn với ông. Tức là thế nước đang bị giặc uy hiếp mạnh lắm. Công tử vừa ở Bình Than về, nói tình hình nguy ngập, sớm tối giặc có thể tràn sang. Nay công tử thấy trách phận phải lập một đội tinh binh, tức là đội gia binh, phòng khi nước có giặc phải dùng đến như hồi phu quân ta còn sống. Còn đám dân binh, ông vẫn cho rèn tập đều đặn chứ?
- Dạ bẩm phu nhân, công tử nghĩ thế là phải. Nhưng không biết phu nhân và công tử định lập mấy đô tinh binh. Dạ bẩm phu nhân, số dân binh hiện có trong thái ấp nhà, nếu tính từ tiểu hoàng nam tới đại hoàng nam thì được mười lăm đô. Nếu tính gộp tới giáp tuổi long lão thì được hai quân. Phu nhân biết đấy, lập tinh binh là cực kỳ tốn kém. Phần phải nuôi quân tập luyện, phần phải mua sắm khí giới. Dạ bẩm phu nhân, nếu không có tinh binh thì không cản được quân giặc dữ. Dạ vâng, trong lúc này vừa phải luyện tập tinh binh, vừa phải luyện tập dân binh. Dân binh còn là nguồn bổ sung cho quân các đạo. Nếu không sẽ dùng vào việc đánh nhỏ tại các thôn ấp để kìm chân giặc, hoặc tiêu hao giặc trong các thời cơ thuận lợi.
( Một đô thời Trần = 80 người, một quân = 30 đô.
Qui chế con trai thời Trần : 18 tuổi gọi là tiểu hoàng nam, 20 tuổi trở lên gọi là đại hoàng nam. Long lão là đàn ông đã 60 tuổi, 70 tuổi gọi là đại long lão.)
Từ nãy Trần Quốc Toản vẫn ngồi nghe phu nhân bàn việc lớn với viên quản gia. Tuy không tham góp ý gì, nhưng trong đầu viên thiếu niên trí dũng này đã phác họa tới hai ba kế sách cho đội quân tương lai của chàng.
Nghe viên quản gia nói, phu nhân cũng thấy phân vân về việc tốn kém. Kể từ khi phu quân bà mất đi, mọi việc trong thái ấp đều phó mặc cho viên quản gia coi xét. Đám dân binh vẫn cứ luân phiên nhau đi luyện tập, ấy là lệ chung của triều đình. Vì Quốc Toản còn nhỏ, nên bà cũng không chiêu tập tinh binh. Nhưng bây giờ con bà đã là một trang thiếu niên dũng lược, biết lấy sự tồn vong của xã tắc làm trọng, nên dù có phải dốc hết sản nghiệp ra cho việc quân, việc nước bà cũng vui lòng. Điều bà băn khoăn là nếu cuộc chiến chưa xảy ra, phải nuôi đội quân ấy trong vài năm, ắt là rất tốn kém. Vậy thời số quân cần độ bao nhiêu cho vừa đủ tầm bao quát của công tử, và thái ấp của bà có sức cung dưỡng? Bà liền hỏi :
- Thế nước nguy khốn, không thể không lập tinh binh để kình chống giặc. Việc này ta giao cho ông và công tử lo liệu. Số người số của trong thái ấp của ta, có những gì ông biết cả. Vậy nên lập như thế nào, bao nhiêu quân, bao nhiêu võ khí, xe ngựa, ông phải tính cho khớp với số lương và số tiền hiện thái ấp ta đang có. Nói xong, phu nhân vẫy tay cho lui.
Trần Quốc Toản sung sướng quá, thiếu chút nữa chàng nhảy bổ lên mà reo như một đứa trẻ, như bản tính hồn nhiên của chàng. Chợt nhớ, mẫu thân vừa mới băn khoăn: “Mẹ chỉ sợ con còn nhỏ tuổi quá mà đứng đầu ba quân, trước hết chưa đủ uy để sai khiến”. Đầu óc mách bảo chàng phải tỏ ra là người lớn. Thế là chàng liền toa rập các bậc cao niên, mái đầu chàng hơi cúi, hai tay chắp lại với vẻ cung kính.
”Con xin đa tạ mẫu thân!”. Lời nói của chàng vừa cầu kỳ, vừa kiểu cách với cử chỉ xa lạ khiến phu nhân cảm thấy khôi hài, suýt nữa bà bật lên thành tiếng cười.
Ba tháng sau, Trần Quốc Toản đã lập xong đội tinh binh gồm mười đô, tức tám trăm người. Đội quân ấy gồm sáu đô bộ binh, ba đô thủy binh, một đô dùng vào các việc như do thám, viễn thám, tuần sát, cảm tử và hầu hạ ở trung quân. Chàng tự phong cho mình là tiểu tướng quân và tấn phong lão quản gia Lê Như Hổ làm đô tổng quản dưới quyền chàng, lo liệu việc luyện binh. Chàng sai dựng trước trung quân một lá cờ bằng vóc đại hồng thêu sáu chữ vàng
”PHÁ CƯỜNG ĐỊCH, BÁO HOÀNG ÂN”
( Phá giặc mạnh, đền ơn vua.)
Mấy tháng đầu việc luyện quân rất chuệch choạc. Đô tổng quản giao việc trực tiếp xem xét tập tành của sĩ tốt cho các đô trưởng. Còn suốt ngày ông phải lo tập với tiểu tướng. Phải nói, Trần Quốc Toản dốc lòng rèn luyện để mình xứng đáng là một viên tướng võ nghệ cao cường. Chàng luyện tập khắc khổ đến không thương xót cả bản thân. Sau mỗi ngày tập như thế, người mệt mỏi rã rời, chàng nằm sấp xuống cho hai tên quân lấy những khúc gỗ lim vuông cạnh dần lên da thịt chàng. Chúng dần chàng đến tê buốt toàn thân, nhưng chưa một lần chàng hé miệng kêu rên, hoặc tự ý đứng dậy trước khi đô tổng quản truyền cho đám lính hầu ngừng tay. Ba tháng sau, chàng là một con người hoàn toàn khác. Tuy gương mặt chàng vẫn non choẹt, má vẫn còn lông tơ, nhưng chân tay da thịt đã cứng như thép. Chàng đi đứng hùng dũng, oai phong lẫm liệt.
Lê Như Hổ là người đàn ông đằm tính, ông đã ngoài năm chục tuổi. Cuộc đời ông gắn liền với thái ấp nhà Hoài Văn. Ông theo phụ thân Trần Quốc Toản từ độ tuổi thiếu niên. Ông là người chịu khó học hỏi, cả võ lẫn văn. Gọi là văn, chứ thực ra ông chỉ đủ chữ nghĩa để đọc sách. Riêng về võ thì ngay đến đám người Tống lưu vong vào loại siêu quần, cũng phải kiềng mặt ông. Chính vì thế, ông muốn truyền cho công tử, để mai đây chàng còn tỉ thí với đám tướng lĩnh nhà Nguyên. Nghe đâu Toa-đô, A-lí Hải-nha... đều là những danh tướng vừa mưu lược quỷ quyệt vừa sử trùy, đao vào loại thượng thặng. Các đường thương, đao của công tử đã điêu luyện. Nhưng côn, trùy, quyền, cước thì còn sơ hở lắm. Thật ra, những cái đó luyện mãi rồi cũng được. Song cái ông lo chính là giúp công tử kiên nhẫn luyện nội công. Nếu nội lực không thâm hậu, thì tất cả các môn học kia, chỉ có tác dụng như một loại người mãi võ, đi những đường quyền cho đẹp mắt thiên hạ để kiếm ăn. Cũng may công tử là người có chí khí anh hùng. Và tuổi chàng còn trẻ, sức đang lên, nếu biết hướng cả tâm thức vào sự luyện tập, vào việc nâng cao nội lực, thì chẳng mấy chốc chàng có cơ thành tựu. Về đường luyện tập của công tử thế là được. Tuy nhiên, hướng của cả đội quân thì chưa ổn. Công tử còn nặng về hình thức. Y hệt như người ta luyện cho đám binh sĩ chuyên dùng vào các việc lễ lạt, tế tự cốt sao đi đứng cho đẹp mắt. Giữa công tử và người lính cũng còn một khoảng cách khả xa. Lính sợ công tử mà chưa yêu công tử. Công tử cần họ như những con tốt trong một ván cờ, chứ chưa thương quí họ như tình ruột thịt. Thành thử họ tập ráo riết đấy mà vẫn như đám quân giấy. Đã hai ba lần ông định nói cho công tử đôi điều, nhưng chưa tiện. Vì công tử bẩm thụ tính tình cương cứng, nên tốt nhất phải chỉ ra cho công tử thấy những tấm gương. Qua đó, công tử rút lấy các việc cần thiết phải làm. Nghe nói Phạm Ngũ Lão là một tướng dạy quân vừa nghiêm cẩn, vừa yêu thương họ. Trong quân, ông có tình huynh đệ, tình phụ tử, nên quân của ông muôn người như một. Chính đức ông Trần Hưng Đạo đã hai ba phen khen Phạm Ngũ Lão, có cái đức và cả cái uy của người làm tướng. Ông đang cố thu xếp công việc để đi với công tử một chuyến thăm ấp An Sinh. Và cũng là để cho công tử hấp thụ lấy cái khí hạo nhiên của Hưng Đạo, và của các tướng thuộc hạ của Đại vương.
Nhận được thư phúc đáp của đức ông, Trần Quốc Toản bèn cho sửa soạn lên đường viếng thăm thái ấp An Sinh. Tháp tùng công tử có đô tổng quản Lê Như Hổ, và mười viên đô trưởng. Trước khi đến An Sinh, Trần Quốc Toản đã viết thư xin đức ông Trần Hưng Đạo cho phép chàng tới thăm thái ấp, để được đích thân xem xét các gia tướng của đức ông luyện binh.
Đọc xong thư, Hưng Đạo mỉm cười: “Cậu bé ở Bình Than đây! Hẳn cháu ta đang nuôi chí lớn? Đáng trọng thay nhân cách của gã thiếu niên này”. Rồi đại vương thảo một lá thư lời lẽ rất chân tình. Cuối thư, ông nhắc: “Ta ngày đêm trông đợi cháu”.
Hưng Đạo sững sờ khi vừa nhìn thấy Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. Một câu hỏi chợt lóe lên ở trong đầu đức ông: “Cái gì đã làm cho gã thiếu niên này trở thành một chàng trai kiên nghị dường kia?”. Ông lướt cặp mắt từ đầu tới chân Trần Quốc Toản và đánh giá sự trưởng thành của chàng. Ông nắm lấy cánh tay chàng lắc lắc:
- Vậy mà mới có nửa năm, từ ngày cháu tới Bình Than Hẳn là bây giờ không ai chê cháu là vị thành niên nữa rồi. Hiện thời cháu bao nhiêu tuổi? Trần Hưng Đạo hỏi.
- Dạ bẩm đại vương, cháu tuổi Bính dần (1266), Trần Quốc Toản đáp, vẻ mặt chàng tươi roi rói.
- Vậy là cháu ta mười bảy tuổi. Chỉ ít tháng nữa là cháu tới tuổi thành niên. Đại vương dẫn khách vào nhà. Phân ngôi chủ khách xong, vương nói:
- Ta nghe nói, cháu đã lập được đội tinh binh. Đang tập gấp lắm. Lại nghe nói cháu cho dựng một lá cờ thêu sáu chữ vàng, dân trong vùng mến mộ cháu lắm, phải không? Đúng là cháu tuổi nhỏ, chí lớn. Ta thật vui lòng được thấy cháu sớm bộc lộ tư cách của một kẻ trung quân ái quốc. Nào, bây giờ cháu hãy kể cho ta nghe trong quân cháu được bao nhiêu đô? Binh lực thủy bộ sắp xếp ra sao?
Trần Quốc Toản cứ thực trình bẩm lại lực lượng chàng đã có trong tay. Nghe xong, Hưng Đạo mỉm cười, ông vuốt ve chòm râu tới hai ba lần rồi mới cất giọng hỏi:
- Công việc hàng ngày của cháu thế nào? Cháu cứ kể lại các việc đã làm.
Trần Quốc Toản kể một cách say sưa về công việc của từng ngày, và cả mấy tháng qua chàng đã làm. Và những thành tựu về võ công mà chàng thu được.
Càng nghe Quốc Toản kể, gương mặt đại vương càng nghiêm lạnh. Ông lắc đầu:
- Hỏng! Hỏng! Cháu đã làm một việc trái khoáy. Thậm trái khoáy. Các việc cháu làm đó là công việc của một người lính. Mà cháu, trách phận chính là làm tướng. Nếu không, ai sẽ cầm đầu đám nghĩa binh của cháu.
Đại vương nghiêm giọng hỏi:
- Trong đám các ông phụ tá cho công tử đây, ai là đô tổng quản ?
Lê Như Hổ đứng dậy chắp hai tay vái đại vương:
- Bẩm vương, kẻ hạ tiện này được công tử trao cho việc đó.
- Vậy ông đã có theo đòi trong quân từ hồi đánh Thát-đát năm Đinh tỵ?
- Bẩm đúng như thế - Lê Như Hổ xác nhận.
- Ai cho phép ông biến viên đại tướng thành một tên lính?
Trần Quốc Toản ngỡ ngàng, hết nhìn đại vương lại nhìn viên quản gia của mình, chàng lo lắng đến bồn chồn. Không hiểu viên quản gia phân giải thế nào với đại vương. Và ông ta có bị khép tội gì không?
Lê Như Hổ sắc mặt không hề thay đổi. Ông ta bình tĩnh đến lạ lùng. Lại vòng tay như người thi lễ, mình cúi lom khom, ông ta đáp:
- Bẩm đại vương, công tử sớm mồ côi cha, được phu nhân săn sóc hết lòng. Chính vì thế mà công tử chưa từng trải việc đời, cũng như chưa biết mọi nỗi thống khổ của đám người cùng đinh dân dã. Ngay đến cảnh ngộ của từng người lính dưới quyền công tử, công tử cũng không hề biết, hoặc không cần biết đến. Giá như trong thời bình, công tử được rèn giũa ở quốc tử viện hoặc giảng võ đường, rồi cùng với năm tháng công tử sẽ thấu hiểu nhẽ đời. Nhưng bây giờ thì khác. Giặc đang rình rập ngoài biên ải, sớm tối chúng tràn vào lúc nào chưa rõ. Mà, tâu đại vương, việc đánh giặc là cực kỳ gian khổ, nó đòi hỏi mỗi người vừa phải có ý chí kiên cường, vừa phải có sức lực dẻo dai, có thể dầm dãi gió sương ngoài chiến trận. Vì thế, theo thiển nghĩ của kẻ hèn mọn này, trước khi công tử trở thành một vị tướng, công tử hãy nếm thử nỗi gian lao của người lính. Bẩm đại vương, có như thế công tử mới có nỗi cảm thông với binh sĩ dưới quyền, và vì thế mới yêu thương được họ, để họ tận tâm gắng sức vì công tử, vì nước.
Bẩm đại vương, nay công tử vừa trải qua nửa năm luyện rèn, sức vóc tăng, võ nghệ tinh tiến. Cho nên công tử không thể không qua cửa đại vương để học lấy những điều cần yếu của bậc làm tướng. Tâu đại vương, kẻ hèn mọn này tuy đọc sách có hiểu được đôi ba phần, khả dĩ có thể dẫn dụ cho công tử. Nhưng điều đó sao bằng đích thân chủ tớ chúng thần đến đây xin được đại vương dạy bảo. Rồi sau đó, được đứng vào hàng quân ít bữa để tướng quân Phạm Ngũ Lão và các tướng Yết Kiêu, Dã Tượng răn dạy cho trong thực hành. Bẩm đại vương, nếu các việc kẻ tôi tớ này hầu hạ công tử trở nên trái dạo, mà phải khép vào trọng tội, thì xin đại vương cho được chết ở chiến trường để lập chút công thừa cho vong hồn đỡ tủi.
Nghe viên đô tổng quản phúc trình các việc theo một ý đồ tốt đẹp, Trần Hưng Đạo lấy làm đẹp ý. Mắt vương long lanh chan hòa tình cảm. Khi y dứt lời, đại vương vội đỡ dậy, ôn tồn nói:
- Hóa ra ta không sát công tử bằng ông. Ta phải cám ơn ông lắm. Phải, việc rèn giũa con người cũng như uốn một cái cây Người ta sinh ra không phải để làm tướng, mà đó là một việc bất đắc dĩ. Kẻ thù buộc ta phải làm như vậy - Còn cháu, đại vương quay ra nói với Quốc Toản - phẩm chất cốt yếu của người làm tướng cần có, chưa phải là việc đánh thành, cướp lương của quân giặc. Các việc đó, một viên tướng tồi nhất cũng hiểu được, và đôi khi cũng làm được. Song, có một điều chính yếu mà giản dị vô cùng, ấy là việc phải thật lòng yêu thương sĩ tốt, và phải biết quí máu xương họ như máu xương cha mẹ anh em mình, như chính máu xương mình, thì chưa hẳn viên tướng nào cũng làm được đâu. Nhớ nhé, đại vương dằn giọng - Phải thật lòng yêu thương sĩ tốt và phải biết dè sẻn máu xương họ như máu xương của chính mình. Điều ta nói đây, cũng có nghĩa là điều căn cốt nhất của đạo làm tướng.
Trần Quốc Toản nhất nhất nghe theo lời răn dạy của đại vương.
Trong những ngày ở thái ấp An Sinh, công tử được đại vương săn sóc, dạy bảo chí tình. Quốc Toản cũng rất hợp với vương. Công tử vừa sáng dạ, vừa tỏ ra là người có chí khí anh hào, khiến vương càng mến, càng hết lòng truyền dạy cho những điều tâm phúc nhất.
Công tử được sắp vào đoàn quân của Phạm Ngũ Lão. Phạm tướng quân cử chàng giữ chức tiểu tướng quân, trông nom hẳn hai quân gồm một nửa quân bộ, một nửa quân kỵ. Các việc chàng làm đều theo sự chỉ dẫn của họ Phạm. Đôi khi có những nét dị biệt chàng đưa vào thế trận, khiến Phạm Ngũ Lão không những chấp nhận, mà còn coi như là một biểu hiện của một người có tài cầm quân kiệt xuất. Ví như có trận đánh tập giữa công tử với một viên tướng khác, mỗi bên đều có số quân như nhau, binh khí như nhau. Chiến trường là một thung lũng, hai bên dàn trận đánh, mục đích là làm thế nào bên này tiêu diệt hoặc đánh bật được bên kia ra khỏi trận địa, và làm chủ toàn bộ địa hình. Sau hiệu lệnh, hai bên đều cho quân nhất loạt xông lên. Suốt một giờ, không bên nào lấn được của bên nào một tấc đất. Bỗng có ba phát pháo hiệu nổ vang, rồi từ hai khe rừng hai tốp kỵ binh đổ ra chọc thẳng vào hai sườn của đối phương mà đánh, khiến cho quân kia rối loạn. Thoắt kỵ đội bên phải chạy vòng sang trái, kỵ đội bên trái chạy vòng sang phải bọc kín lấy quân đối phương bằng hai vòng tròn kỵ binh. Làm cho cả quân bộ, quân kỵ của đối phương trở tay không kịp. Vòng vây cứ mỗi lúc một thít lại nhỏ hơn, tới lúc đối phương phải kéo cờ trắng xin hàng. Trận ấy Quốc Toản thắng lớn. Và chính điều mới mẻ trong chiến thuật tiến công này của công tử đã làm Phạm Ngũ Lão phải kinh ngạc. Tướng quân thuật lại từ đầu đến cuối trận đánh với Hưng Đạo đại vương.
Đại vương cười nói :
- Điều này không có gì mới. Trong binh pháp gọi nó là thuật đánh vu hồi. Hơn một ngàn năm trước đây tướng La Mã đã tạo ra cách đánh này, và ông trở nên một danh tướng không có đối thủ. Nhưng với Quốc Toản thì lại khác. Đó là một sự sáng tạo song trùng chứ không phải sự bắt chước. Ta tin Quốc Toản sẽ trở thành một tướng tài kiệt hiệt, nếu như gã thiếu niên này để toàn tâm toàn ý vào việc quân, việc nước.
Ngày lại ngày trôi qua, Quốc Toản và đoàn tùy tùng ở ấp An Sinh đã được nửa tuần trăng. Tớ thầy đều nhất tâm để dạ vào các việc: từ rèn luyện quân sĩ đến thuật cầm quân, nuôi quân, khao thưởng và cả các hình thức trách phạt binh sĩ, các tội trạng, tội danh cùng biết bao chuyện khác, không để sót một điều gì.
Hết nửa tuần trăng, Quốc Toản ngỏ ý xin về thái ấp tiếp tục rèn luyện quân sĩ. Trần Hưng Đạo thuận cho, và mở tiệc khao thưởng công tử và đám tùy tùng, và cả các tướng đã có công rèn cặp Trần Quốc Toản. Rượu uống thả cửa, của ngon vật lạ của sông núi như ba ba, lươn, ếch, rùa, rắn, hươu, nai đều được các đầu bếp chế biến thành những món ăn lạ lùng. Các tướng đều nhiệt thành bày tỏ với Quốc Toản những điều tâm phúc nhất. Tiệc gần tan, Hưng Đạo vương ưu biệt nói với Hoài vương những điều nghiêm cẩn:
- Tới nay cháu thật sự là một người có đủ tư cách cầm quân. Phải nhận, cháu là một tướng trẻ nhưng có nhiều mưu lạ. Sắp tới, ta sẽ trình với hoàng thượng về một cuộc đại duyệt toàn quân để kiểm xét lực lượng. Cháu sẽ được triệu tới tham gia ngang hàng với các vương hầu khác, chứ không như ở Bình Than.
Nhân đây ta nói thật để cháu tiện lo liệu việc quân. Các tin tức đều cho biết Hốt-tất-liệt đang ráo riết trưng binh đánh Đại Việt. Nghe đâu y huy động tới năm chục vạn quân đánh ta. Hiện nay lương thảo, binh khí đang vận chuyển dần xuống các tỉnh phía nam Trung Quốc để dồn sang ta. Nếu lần này ta lại cự tuyệt các yêu sách của nhà Nguyên, chắc chắn Hốt-tất-liệt sẽ sớm tối động binh. Cuộc xâm lăng sắp tới của nhà Nguyên, sẽ là cuộc xâm lăng lớn nhất trong lịch sử dân tộc ta từ thời dựng nước. Cả dân tộc ta đang đứng trước một chọn lựa cực kỳ gay gắt: hoặc còn hoặc mất, hoặc độc lập tự chủ hay làm nô lệ tôi đòi cho giặc. Vậy thời, cháu phải làm thế nào truyền được cho binh sĩ lòng căm giận bè lũ Thát-đát không muốn cho dân ta sống yên lành, để mỗi người họ tự thấy cần phải làm gì trước thế nước đang nguy ngập. Cháu nên nhớ kỹ, việc nước là phải mọi người chung lo, chớ không phải chỉ có riêng đức vua và một dúm quan lại triều đình. Còn sức mạnh của quân ta có được, lại nhờ vào lòng dũng cảm chiến đấu của từng binh sĩ, chớ không phải chỉ ở nơi mấy vị tướng. Cho nên, đứng đầu thái ấp, cháu phải chăm lo đời sống cho dân và cả binh lính dưới quyền. Làm chu đáo hai việc đó, tự khắc trong quân cháu có sức mạnh không lường hết được đâu.
Đưa tiễn Trần Quốc Toản ra khỏi quân doanh chừng non một dặm, Trần Hưng Đạo băn khoăn như muốn căn dặn thêm điều gì đó với viên tướng trẻ mà ông giàu lòng yêu mến. Nhưng rồi ông lại ngập ngừng và đi tiếp. Cứ như là trong lòng ông đang day dứt vì một lẽ gì đó, nếu nói ra thì sẽ ân hận, mà không nói ra thì sẽ hối hận. Đi thêm chừng mươi sải ngựa nữa, ông níu tay cương Quốc Toản:
- Ta cho cháu vật này. Rồi ông móc trong ngực áo ra cuốn sách bìa đen gáy bọc đồng lá vàng au - Không phải ta không muốn cho cháu. Chỉ vì cháu còn trẻ tuổi quá, sợ không lĩnh hội được đầy đủ các điều ta viết trong sách. Ta gọi nó là “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”. Đây là các bí thuật của phép dùng binh. Cháu phải lấy cái tâm trong sáng, tức là khi đọc sách của ta phải minh tâm kiến tính. Chớ có hấp tấp bạ lúc nào đọc lúc ấy. Khi tâm thần bất định hay vì một tức giận nhất thời, tuyệt nhiên không được mở sách này. Các mưu thuật và bí thuật của ta, chỉ đem dùng vào việc đánh giặc giữ nước. Nếu đem lòng ngu tối tham bẩn mà dùng các mưu thuật của sách ta, trong việc tranh đoạt quyền lợi với người đồng tông, đồng bào thời tai ương không biết đâu mà lường. Nguy cơ tuyệt diệt là điều không thể tránh. Ta cũng dặn trước, nếu con cháu không có được cái tâm nhân bản, cũng không cho lưu giữ sách này. Về cháu thì ta yên tâm. Song cháu phải rèn sao cho lúc nào cũng giữ được cái tâm trong lặng. Tâm có trong lặng, xét đoán sự việc mới sáng suốt. Và đó là cái gốc của mọi sự thành tựu. Nói đoạn, đại vương trao cuốn sách vào tay cho Trần Quốc Toản, rồi ông quay ngoắt ngựa, phi nước đại. Quốc Toản sững sờ vừa vái, vừa nói theo: “Cháu đội ơn đại vương!”. Trở lại dinh, trao ngựa cho quân thả vào tầu, Trần Hưng Đạo đi thẳng vào thư phòng đóng chặt cửa lại như người chạy trốn. Ông nằm ngửa nhìn lên mái nhà, những đám kèo cột, đấu sen, chân quì, rui, mè sắp xếp dọc ngang làm ông hoa cả mắt. Lòng ông bồn chồn và nước mắt ứa ra. Như có một cái gì xót xa cứ bào cứa vào gan ruột ông. Nỗi cay đắng khiến ông không thể kìm nén được xúc động, ấy là lòng ông xót thương cho Trần Quốc Toản - một đứa trẻ mồ côi, bằng ấy tuổi đầu, nhẽ ra việc nó phải để tâm là ăn, học và kết bạn chơi bời sao cho thỏa thuê. Ấy thế mà nó phải tranh lo việc đánh giặc với các bậc huynh trưởng. Lòng ông réo sôi lên nỗi uất căm tên giặc già Hốt-tất-liệt: “Hỡi con sói già ác độc kia. Dưới móng vuốt của mày, hàng triệu sinh linh đã phải chết. Hàng trăm quốc gia nghiêng đổ thành trì. Mày gieo rắc tang tóc cho nhân loại Vì mày, người trẻ không có tuổi xuân, người già không được yên nghỉ. Ta thề, nếu không moi gan móc mắt màyra được thời ta cũng chặt hết vây cánh mày khi mày vác bộ mặt xâm lược vào đây. Mày đừng tưởng vó ngựa của mày là không giới hạn, mày là một hoàng đế của mọi hoàng đế. Hãy liệu hồn mày đấy !”.
Phải nói, từ sau năm Đinh tỵ (1257), giặc Mông-Thát đã để lại trong lòng vị tướng trẻ thời ấy một nỗi đau nhức nhối. Rằng làm thế nào để trong tay có một nhân dân giàu có, và một đội quân đủ mạnh để đè bẹp các thế lực xâm lược ngoại bang. Chỉ tiếc ông không có đủ quyền lực để ban bố các đạo luật cần thiết có lợi cho người dân. Nhưng ông đã dốc gần như toàn bộ trí tuệ và sức lực, vào việc sáng tạo các mưu thuật công thủ đối với kẻ thù. Trong phần thuyết dẫn và cả thực hành, ông hết sức chú ý các sự kiện. Vì sao thành Điếu Ngư nhỏ làm vậy, mà quân Mông Cổ không hạ được? Lại vì sao mà một nước Đại Tống mênh mông là thế phải tiêu vong một cách nhục nhã? Đó không chỉ là những câu hỏi mà còn là những bài học của sự thành bại. Cái gọi là bí truyền trong binh pháp của ông nó nằm sờ sờ trước mắt mọi người, nhưng ít ai chịu hiểu. Mai đây ông sẽ khai triển nó trong chiến trận, nhất định còn lắm điều hay có thể thêm thắt nữa vào các chương mục.
( Điếu Ngư, một trái núi nhỏ ở tỉnh Tứ Xuyên có đắp thành ở đó, do Vương Công Kiên tướng của nhà Tống trấn giữ. Quân xâm lược Mông Cổ do Mông Kha (Anh trai Hốt-tất-liệt) đánh tới sáu tháng mà không hạ được, quân bị chết nhiều. Mông Kha phải rút.)
Lại nói về Quốc Toản từ khi trở lại thái ấp, chàng như người vừa lột xác. Nghĩa là chàng gần gũi chăm sóc mẹ hơn. Chàng lăn lộn cùng với đám quân sĩ, khi thì giảng giải cho họ về binh pháp. Khi thì đặt các tình huống giả định để họ tự tìm cách phải vượt thoát. Trong những ngày tập tành để đi vào trận đánh thử, chàng ăn chung ở lộn với họ. Chàng không nề hà các việc nặng nhọc. Chàng cùng ăn các thức ăn với họ. Khi luồn lách vào hang sâu bụi rậm, chàng cũng ăn gạo đồ phơi khô, uống nước bầu, nước ống. Vì liền vai sát cánh cùng với binh sĩ, nên chàng cảm thông với cảnh ngộ của từng người. Bởi vậy chàng càng thương quí họ hơn. Chàng ráng bắt chước những gì mà tướng quân Phạm Ngũ Lão đã làm với binh lính của ông. Chàng thấy ở Phạm tướng quân một tình cảm vừa thắm đượm vừa chan hòa, binh sĩ coi ông như một người anh cả. Chăm lo thăm hỏi họ như tình cảm của người chị đối với cả một đàn em. Có lần chàng thấy một người lính trong khi tập bị ngã ngựa rách da đầu gối. Mấy hôm sau vết thương sưng tấy lên. Phạm Ngũ Lão vào rừng tìm lá nấu nước rửa vết thương, rồi lấy mảnh chai cạo phoi cây ba ngạc đắp vào cho hút mủ. Thấy cử chỉ đáng kính đó, Quốc Toản bèn lân la hỏi:
- Thưa tướng quân ! Tiểu sinh chưa trải việc đời, dám xin tướng quân chỉ bảo.
Phạm Ngũ Lão ngừng tay băng bó vết thương, nhìn Quốc Toản với nụ cười mỉm và nói như giục:
- Có điều gì xin công tử cứ nói. Chắc không làm vừa lòng công tử được. Nhưng thôi, cứ gắng xem sao.
- Thưa, cử chỉ của tướng quân gợi nhớ cảnh Tào Tháo ghé miệng hút mủ nhọt của một tên quân. Cử chỉ của tướng quân, tôi ghi nhận tướng quân làm với lòng yêu thương binh sĩ như tình huynh đệ. Nhưng tại sao hành động của Tào Tháo thì bị các sử gia chê là xảo trá. Tôi nghĩ lòng không yêu, khó mà làm được các việc nhơ bẩn ấy.
Phạm Ngũ Lão gật gật đầu, ông buộc xong vết thương cho người lính rồi cho anh ta về trại. Đoạn ông tiếp chuyện Quốc Toản:
- Về việc công tử hỏi, không có gì khó hiểu. Đối với người lính vừa rồi, tôi yêu thương họ thực sự. Là bởi chúng tôi một tình cảm chung, một kẻ thù chung. Còn Tào Tháo thì khác. Ông ta làm việc đó vì cái chí của ông ta chứ không phải vì cái tâm. Công tử nên nhớ, vì chí hướng riêng, người ta có thể làm đủ mọi việc từ cao thượng đến đê hèn. Tào Tháo hút mủ cho một tên lính, để rồi thu phục một trăm vạn quân dưới quyền ông ta, rằng ông ta là người nhân nghĩa. Cũng chỉ vì đa nghi, không cho ai đến gần lúc mình ngủ, cho nên Tào Tháo đã giết một người lính hầu cận, khi người này kéo chăn đắp cho y. Rồi y cho làm ma thật to, và vờ hối hận, y khóc rống lên rằng: “Ta ngủ mê” . Cũng có mặt trong đám tang ấy, Dương Tu là người biết gan ruột Tào Tháo, nên ông khóc người lính kia: Khổ thân mày ngủ mê nên không biết, chứ thừa tướng có ngủ mê đâu . Vì chuyện đó, sau này Tào Tháo giết Dương Tu bởi một lẽ rất vu vơ. Ấy, tâm địa của Tào Tháo là như vậy, nên các nhà viết sử đời sau đều chê Tào Tháo là gian hùng, xảo trá. Tuy nhiên, ông ta vẫn cứ là một danh tướng - một danh tướng tàn bạo, một chính trị gia kiệt xuất để nhiều sự tranh cãi nhất trong lịch sử.
Phải nói, trong nửa tuần trăng ở với Hưng Đạo đại vương và các tướng Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đã để lại trong đầu óc Trần Quốc Toản biết bao gương sáng. Khi về thái ấp, công tử cũng thể hiện được tấm tình huynh đệ chi binh. Bởi vậy chàng rất được binh sĩ tin yêu. Họ ra sức luyện rèn, và những thành tựu thu được là điều đáng khích lệ. Ngay cả việc đó cũng làm cho phu nhân đẹp ý. Bà không những chỉ săn sóc Quốc Toản, mà còn săn sóc cho cả đoàn quân. Bà đã tự may thêu cho tất cả mười đô, mỗi đô một lá cờ hiệu, và con trai bà riêng một lá cờ có thêu ba chữ “HOÀI VĂN HẦU” cắm ở trung quân.
Viên đô tổng quản Lê Như Hổ lại khéo chọn từ mỗi đô một người bằng tuổi với Quốc Toản, và có dáng vóc hao hao như chàng. Các chú lính trạo nhi ấy, nói là để hầu hạ chủ tướng nhưng thực ra đô tổng quản đã luyện cho họ thành những tay võ nghệ cao cường, không thua kém chủ tướng là mấy. Họ luôn ở bên cạnh công tử, và lúc nào cũng có thể xả thân vì công tử, vì nước. Mười võ sĩ ấy được ăn vận giống nhau, binh khí giống nhau, cưỡi ngựa giống nhau đi lộn vào với Quốc Toản; nếu như Quốc Toản cũng mặc trang phục và cưỡi ngựa giống họ, hẳn khó ai phân biệt được công tử với đám quân cận vệ. Công tử đối đãi với họ như với bạn, như với lũ đàn em, ấy là ngoài lúc tập luyện. Còn như khi thi hành công vụ thì trên dưới rõ ràng, kỷ cương nghiêm chỉnh. Thật là một đội quân mạnh, trăm người như một, ngàn người như một. Công ấy trước hết thuộc về phu nhân, một bà mẹ nhân ái trung nghĩa, hết lòng vì nước. Công ấy còn thuộc về viên quản gia- viên đô tổng quản Lê Như Hổ, đã có công dìu dắt chủ tướng đi từ bước chập chững đến thành tài.
Và nữa là Trần Quốc Toản, một con người như được tạo ra từ khí thiêng sông núi. Nay chàng đã chững chạc là một vị tướng, đứng đầu một đội quân tám trăm người với sức mạnh hùm sói, sẵn sàng tử chiến với giặc dữ.
CHƯƠNG 15 :

Từ sau buổi đưa tiễn trên cửa Thần Phù trở về, nhớ lại những sự việc đã qua, An Tư công chúa cảm thấy tất cả đều trôi đi như một giấc mộng. Từ việc theo quan gia đi thăm Tịnh Bang ấp của Tuệ Trung thượng sĩ, gặp tráng sĩ Đặng Dương, đến cuộc du ngoạn trong rừng núi Tản Viên gặp hổ và cuộc hội ngộ tao phùng với chàng hiệp sĩ người vùng Tản Viên. Lại cuộc tiễn đưa Trần Đạo Tái với chàng ta đi cứu viện Chiêm Thành. Rồi nữa cuộc chia biệt đau lòng giữa nàng với Yến Ly.
Vốn người hiếu động, nhưng lúc này An Tư thấy không thể một mình một ngựa xông xáo vào các nơi tướng phủ như trước nữa. Hoặc kéo cả một bồ đoàn con hầu đầy tớ, nghênh ngang du ngoạn cảnh đẹp đất nước. Như thế sẽ rất vô duyên, bởi tất cả đều rộn lên khí thế đánh giặc Thát. Đi về bất cứ nẻo nào trên toàn cõi Đại Việt, người ta cũng đều nghe thấy tiếng rèn đúc khí giới, tiếng quân tập luyện reo hò dậy đất. Và từng đoàn người tấp nập chuyển tải lương. Chính vì thế An Tư phải giam mình trong cung. Nàng buồn lắm. Phần vì nhớ bốn phương, vì tính nàng ưa bay nhảy. Nhớ nhất Chiêu Thành vương - chàng tráng sĩ mài kiếm dưới trăng đã ba thu chờ ngày giết giặc Thát. Chiêu Thành vương nổi tiếng khắp kinh thành vì lòng kiên nhẫn luyện rèn kiếm kích, và nuôi chí diệt thù. Tráng sĩ có khuôn mặt đẹp, cơ thể cường tráng võ nghệ cao cường, nhưng lại không chịu để cho một bóng giai nhân nào lọt vào mắt chàng. Chính lòng kiêu hãnh của Chiêu Thành vương đã khích lệ An Tư chinh phục. Và cuối cùng trái tim tráng sĩ cũng phải mềm lại trước bàn tay ngà ngọc ve vuốt và những lời nói nũng nịu yêu kiều của công chúa. Mới đây chàng lại tình nguyện nhập vào đội quân thám sát. Và hiện thời chàng đang ở trên vùng ải bắc. Đã ngót một tuần trăng, chàng chưa trở lại, và cũng không có thư tín gì. Điều đó làm cho An Tư băn khoăn đến rối dạ: “Phải làm một việc gì đây?” Nàng đặt cho mình câu hỏi ấy. Bởi khắp trong nước không một người nào là không có công việc. Và tất cả mọi việc lớn nhỏ đều hướng về cuộc bảo vệ giang sơn. Chợt nhận ra mình như một người ngoài cuộc, nàng giật mình và tự ngượng. Công chúa bèn đòi bọn tỳ thiếp vào hỏi:
- Các em có biết hiện nay mọi người đang làm gì không?
- Dạ bẩm công nương, biết ạ ! Mọi người gần như đồng thanh đáp lời công chúa.
- Vậy mọi người đang làm gì? Công chúa gặng hỏi.
- Dạ bẩm công nương, mọi người đang làm các công việc để chờ đánh giặc Thát, khi chúng tràn vào cõi.
An Tư vẻ hơi ngậm ngùi tự thẹn: “Thì ra ai nấy đều biết mình cần phải làm gì để cứu nước. Ngay cả bọn nàng hầu còn quan hoài đến vận nước. Thế mà ta chỉ ham mải các cuộc vui”. Nghĩ vậy, công chúa chậm rãi nói:
- Các em, chúng ta là phận nữ nhi không xông pha trận mạc được, chúng ta phải làm gì chứ, chẳng nhẽ chỉ có mỗi việc trang điểm sao? Việc ấy Hốt-tất-liệt đâu có sợ.
- Dạ bẩm công nương, chị em chúng con ai cũng muốn được làm một việc gì để góp vào với thế nước.
Công chúa vui vẻ hẳn lên. Nàng nói:
- Ừ, nhưng mà chúng ta làm gì nhỉ? Đó là một câu hỏi thành thực, khiến cả đám nữ tỳ ngơ ngác. Họ cũng vừa chợt hỏi nhau: “Làm gì?”.
Một tỳ nữ nom có phần rắn rỏi, từng trải xin nói:
- Bẩm công nương, chị em chúng con có thể làm được mọi việc. Như cày cấy lấy lúa gạo nuôi quân. Hoặc gánh gạo, tiếp lương cho quân ở mãi các vùng miền heo hút, không có sông suối thuyền bè qua lại, hoặc xe không qua, ngựa không tới. Nhưng chúng con đi như thế, lại không có người hầu hạ công nương. Vậy theo ý con, chúng ta nên làm các việc nhỏ tại đây thôi, vẫn có thể phấn khích được lòng quân.
Nghe nàng hầu nói, An Tư công chúa mắt sáng lên một cách tin tưởng. Nàng dồn hỏi:
- Chúng ta làm được à? Tất cả mọi người đều làm được à? Cả ta nữa chứ? Thế thì tốt quá. Nhưng làm gì mới được chứ?
- Bẩm công nương, ví như chúng ta đan các túi đựng tên bằng mây, tre, may các túi đựng trầu cho quân sĩ. Ai khéo tay thì thêu thùa bông mai, bông cúc hoặc hình dũng sĩ vào khăn tay, để trao tặng cho các chiến sĩ có công luyện rèn. Lại nữa, nếu có vải thì may áo mền, cho các chiến sĩ mặc trong mùa đông giá buốt.
Nghe nàng hầu nói, An Tư cảm thấy ấm lòng. Vì rằng, chính các công việc đó sẽ là chỗ dựa cho nàng, an ủi nàng yên tâm rằng mình đã hòa nhập vào đại cuộc. Lập tức mụ quản gia được triệu đến, và chỉ mấy hôm sau các công việc được bắt đầu. Cung cấm của công chúa, bỗng chốc nhộn nhịp như công trường. Đám gia nô mạnh chân khỏe tay được sắp xếp vào các toán đi lấy mây, lấy song về pha chẻ thành nan để đám nữ tỳ khéo tay đan thành những chiếc túi đựng tên. Thoạt đầu chỉ có vài ba người biết đan. An Tư bắt họ phải dạy cho những người khác. Vài bữa sau, ai cũng biết đan, chính công chúa cũng đan được. Tuy vậy, khó nhất vẫn là lúc gầy nan. Tức là những thanh nan đầu tiên để tạo chiếc túi hình ống, y hệt một ống tre nhưng mềm mại đẹp mắt. Sau có người sáng ý nghĩ ra cách đan túi có nắp đậy, phòng khi người lính di chuyển, tên không bị xóc mà rơi ra ngoài. Chiếc nắp đậy được gắn vào miệng túi bởi cái bản lề cũng bằng mây. Tức là nó được kết gút và quấn nhiều vòng cho thật chắc.
Công chúa chỉ tập đan một vài túi tên cho biết, cho vui để khích lệ đám tỳ nữ. Còn nàng đích thân trông nom các việc thêu may các túi đựng trầu và khăn tay. Tất cả các loại kích cỡ to nhỏ, thêu thùa mẫu mã, màu sắc thế nào đều tự công chúa nghĩ ra và truyền cho đám thị nữ làm theo. Riêng có việc may áo mền thì còn cho người đi mua bông, mua vải, phải chờ ít bữa nữa.
Ngày lại ngày tiếp nối, công việc cứ cuốn hút mọi người với một vẻ đắm say kỳ lạ. Đến nỗi công chúa cũng quên cả chải chuốt trang điểm, mà lao vào việc từ sáng đến tối mịt. Việc ăn uống cũng không được xem trọng như trước nữa. Đôi khi An Tư cũng ăn uống chung lẫn với đám người hầu hạ. Nàng không hề nghĩ việc xuề xòa là làm thấp phẩm giá và địa vị cao sang của mình. Trái lại, nhờ sự hòa đồng đó mà công chúa được đám tì nữ càng gần gũi, yêu trọng. Và vì thế công việc cứ mỗi ngày thành tựu một cao hơn. Ví như mấy ngày đầu lóng ngóng, có khi mỗi người loay hoay cả ngày không đan xong một chiếc giỏ đựng tên. Nhưng mới qua nửa tuần trăng, ai cũng thạo việc. Bây giờ các nàng cứ nhắm mắt lại ai cũng đan được, đêm tối cũng đan được mà không sợ sai, sợ lỗi. Và mỗi người đan một ngày đã dư chục chiếc giỏ đựng tên. Bên may thêu cũng không kém bên .đan lát. Chợt một bữa An Tư đi kiểm tra xem các vật phẩm làm ra được nhiều chưa, để còn gửi đi tặng các đoàn quân. Nàng kinh ngạc thấy dãy nhà ngang đã chứa đầy ắp tới sáu, bảy gian thuần những thứ để làm quà cho binh sĩ. Trong lòng nàng phấn chấn lạ thường. An Tư chợt nghĩ về năm Đinh tỵ, quân xâm lược Thát-đát tràn vào bờ cõi, Linh từ Quốc mẫu đã làm biết bao việc, khiến cả triều đình đều sửng sốt và kính trọng. Ví như một tay Quốc mẫu lo việc sơ tán con em các hoàng thân quốc thích, về ẩn náu mãi tận vùng Long Hưng( thuộc Thái Bình ngày nay). Lại lo thu gom lương thực, mua sắm và tích trữ khí giới, chờ tới khi quân ta phản kích giặc, Quốc mẫu đem ra cung hiến kịp thời, khiến ba quân thêm khí thế diệt thù.Việc ấy, hiện sử gia Lê Văn Hưu đã chép trong quốc sử. Lại nghe nói, các việc đó Quốc mẫu cứ lặng lẽ làm, đến cả thái sư Trần Thủ Độ cũng không biết nữa. Mới hay ai có lòng vì nước, tự khắc biết mình phải làm gì.
Bởi thế, từ ngày nghĩ ra được các công việc cùng làm với đám tì nữ, An Tư công chúa thấy trong lòng thư thái. Việc còn lại lúc này là trao tặng các sản phẩm của cung An Tư cho ai, cho đoàn quân nào. Thật ra, các chiến sĩ ở bất cứ vương phủ nào cũng đều xứng đáng được trao tặng. Song nàng ao ước giá như Chiêu Thành vương lập riêng đội gia binh của vương phủ, để nàng được trao các tặng phẩm đến tận tay đám binh sĩ này thì đẹp xiết bao. Tiếc thay, chàng lại là tướng của triều đình. Trước đây chàng coi sóc đội quân thần võ nay vì có việc gấp trên biên ải, hoàng thượng riêng cử chàng đi. An Tư băn khoăn, việc gấp thì phải kíp quay về để hồi âm. Sao chàng lại đi biền biệt? Nàng đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi với nhiều cảnh ngộ éo le, trạng huống phức tạp. Để rồi lo lắng, âu sầu. Suốt ngày nàng miên viễn ủ dột vì những điều không đâu ấy. Đêm về, nàng trằn trọc ôm gối, vò chăn tự vẽ ra mối sầu chinh phụ. Và lòng buồn nẫu ra như một chiều quan tái. Khi mảnh trăng hạ huyền chếch soi nơi rèm cửa sổ, hắt vào nhà một màu trăng trắng ảo huyền, thì nàng không thể nào nhắm mắt ngủ lại được nữa. An Tư vùng dậy lấy các đồ nghề ra thêu. Đích thân nàng sẽ thêu một chiếc khăn tay tặng chàng. Công chúa căng vuông lụa bạch lên khung thêu rồi chọn màu chỉ. Nhưng thêu cái gì mới được chứ? Nàng ngồi trầm tư. Thoạt đầu, nàng định thêu một con chim đại bàng, đang sải cánh lao vào bầu trời giông bão, để nói lên cái chí của chàng - Cái chí của chàng ai mà chẳng biết. Chính là nói lên nỗi lòng của ta đối với chàng. Về tấm lòng của mình, công chúa định thêu một bông mai trắng e ấp trổ trên một cành khẳng khiu - Thế thì kín đáo quá, ai mà hiểu được. Chợt An Tư nghĩ đến việc đề thơ. Ý này làm nàng phấn chấn hẳn lên. Vì thơ, ý tại ngôn ngoại nới được nhiều lắm. Nàng không màng tới việc múa bút khoe văn với chàng, mà chỉ muốn thêu một bài Đường thi tứ tuyệt nào đấy cho hợp với cảnh ngộ của hai người. Thoạt đầu, An Tư nghĩ đến bài “Xuân oán” của Kim Xương Tự. Đọc lên nghe hợp với tâm trạng mình quá, công chúa đã toan đặt mũi kim thêu. Nhưng đọc đi đọc lại vài lần, nàng lưỡng lự. Tứ của bài thơ, hợp với cảnh ngộ kẻ ở chốn cô phòng chờ người lữ thứ. Song hồn thơ mông lung, ủy mị, đành bỏ. An Tư lại lần giở trí nhớ tìm đến các bài thơ khác. Công chúa nhẩm đọc bài “Xuân tứ” của Lý Bạch. Nàng lắc đầu. Bài thơ cực tả cảnh thiếu phụ chờ chồng đi chinh chiến ở cõi xa. Tâm trạng nao nao buồn, như là cảnh góa phụ, cũng không hợp. Thả hồn phiêu đãng lên vùng ải bắc - miền đất nàng chưa hề đặt chân tới. Nàng hình dung trong lung linh sương khói, cảnh núi non trùng điệp cao chất ngất, rừng thẳm bạt ngàn chỉ có tiếng gió núi ào ào, tiếng suối nước róc rách xen với tiếng chim, tiếng thú, lúc thì thắm lúc gào thét. Và Chiêu Thành vương - tráng sĩ của nàng, một mình một ngựa len lỏi đó đây để dò tìm tin tức về quân giặc. Lại nữa, nàng cũng hình dung thấy phía bên kia biên ải, quân Nguyên đông như một đàn kiến đang rập rình ào vào cõi ta. Trí tưởng tượng đưa nàng về với thực tại, nàng đang đối diện với vuông lụa bạch đã căng sẵn trên khung thêu. Vậy chữ nghĩa hoặc cảnh vật nào phủ lên đó, mang được chí hướng chàng và tâm thức ta? Câuhỏi cứ xoáy sâu vào đầu óc An Tư. Chợt một bài thơ khác, cứ hiện dần ra như khuôn tranh trước mắt nàng. Ấy là bài “Lương châu từ” của Vương Hàn. Công chúa đọc:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Dịch nghĩa:
KHÚC LƯƠNG CHÂU
Rượu ngon, trong chén ngọc dạ quang
Sắp uống, tiếng tì bà trên ngựa đã giục giã
Say sưa nằm lăn lóc nơi sa trường, chàng đừng cười nhé
Xưa nay đi chinh chiến đã mấy ai trở về.
Vừa đọc dứt, An Tư đã hình dung thấy cảnh tráng sĩ đang ngụp lặn ngoài sa trường, da ngựa bọc thây không hề nản. Và cả những nét gian khổ, lam lũ hằn sâu trên từng khuôn mặt cùng cái chết cặp kè đe dọa. Nhưng sao vẫn thấy phong dạng anh hùng toát ra từ nơi các chàng trai mã thượng ấy. Bức tranh chiến trận như có một ma lực hấp dẫn nàng. Dường như có thần linh xui khiến, An Tư không chút đắn đo, gỡ luôn một búp chỉ màu thiên thanh thêu áp lên mặt lụa bạch. Trái với lệ thường, phải viết chữ vào vải rồi mới thêu; An Tu không làm thế, nàng thêu vo, nét chữ đều đặn sắc sảo như viết trên giấy. Nàng vẫn cặm cụi, một tay giữ khuôn, một tay nhể thoăn thoắt, khiến ta có cảm giác nàng đã nắn nót viết các dòng chữ kia bằng các đầu ngón tay với một thứ mực chiết ra từ hồn nàng. An Tư cứ gò lưng lẩy từng mũi kim một cho tới khi gà gáy dồn, ngoài vọng lâu đã gióng lên ba tiếng trống sang canh. Cũng vừa lúc nàng kết gút nét chữ cuối cùng của bài thơ. An Tư ngắm nhìn bức thêu như ngắm nhìn một vật lạ. Nàng ngạc nhiên đến nỗi không ngờ rằng đó lại chính là tác phẩm của mình. Nàng chợt nhận ra phải đi thêm một đường viền màu lam nữa quanh khăn, nếu không bức thêu sẽ trở nên trống trếnh. Vừa toan xâu chỉ, chợt có hơi thở âm ấm phả vào cổ nàng, và một giọng nói khe khẽ vừa đủ nghe:
- Đẹp quá !
Công chúa giật nẩy người. Nàng run sợ, tưởng như có quân gian tế lọt vào.
Đã toan kêu cứu thì một bàn tay đặt nhẹ lên vai nàng và nói nhỏ:
- Công nương không nhận ra ta ư? An Tư quay lại. Vừa chợt thấy Chiêu Thành vương, nàng ôm ghì lấy chàng thổn thức:
- Chiêu Thành vương của em! Tráng sĩ của em? Sao chàng đi biền biệt, làm em lo quá!
Chiêu Thành vương nắm lấy hai bờ vai của công chúa lắc nhẹ, rồi đặt lên đôi mắt lim dim, đôi môi chúm chím như nụ hồng hàm tiếu kia những chiếc hôn ngọt ngào.
- Ta nhớ nàng đến đau lòng, chàng nói - nhưng mệnh quân vương trao cho chưa hoàn tất, sao ta dám trở về bệ kiến. Nói xong chàng nở một nụ cười tươi rói. Và như chợt nhớ ra điều gì, chàng vội chạy ra ngoài thềm.
An Tư bước theo chàng. Trăng hạ huyền như một nét mày cong thiếu nữ, treo lơ lửng trên nền trời mờ sương khói. Công chúa nhìn xuống bậc tam cấp, nơi có cây ngâu cổ thụ lờ mờ hiện ra một bóng ngựa. Thì ra chàng cột ngựa ở gốc ngâu - Ta vô tâm quá! - Nàng tự trách - có nhẽ chàng từ biên ải về thẳng đây, chưa kịp cơm nước. Chàng lấy vật gì đó trên yên ngựa, rồi thoăn thoắt lên thềm, kéo công chúa vào nhà.
- Ta đem quà từ biên ải về cho nàng đây. Vừa nói, chàng vừa mở chiếc túi vải chàm thêu nguệch ngoạc vài đường chỉ đỏ. Bỗng mặt chàng đổi sắc buồn thiu.
Không hiểu có chuyện gì, An Tư ghé nhìn vào trong túi. Chao ôi những trái hồng xứ Lạng dập nhoe nhoét như một nồi hồ vữa.
Vẻ mặt chàng buồn rười rượi. Chàng nhìn như cầu khẩn nàng tha thứ cho nỗi vụng về.
An Tư không chịu nổi cái nhìn đó, nàng ôm ghì lấy chàng và nói những lời đứt nối chân thành:
- Ôi tráng sĩ của em. Chàng trở lại với em, quí biết dường nào. Đừng buồn nữa chàng. Mấy trái hồng nát là do đường sá gập ghềnh, và tuấn mã của chàng không quen đi nước kiệu…
Vẫn thấy chàng ngùi ngùi không đáp. An Tư lại nói:
- Hãy coi như em đã được ăn hồng rồi, bởi tình chàng gửi gấm vào đó còn quí hơn nhiều. Ôi, chàng cho em nhiều quá ! Em được hạnh phúc đủ đầy quá !...
Lời âu yếm được thốt ra từ trái tim chân thực, lại được bàn tay ngà ngọc của nàng ve vuốt, và mái tóc nàng, khuôn mặt nàng cứ áp sát vào bộ ngực nở nang của chàng, như kiếm tìm một nơi ẩn náu chở che, khiến chàng vừa cảm động, vừa sung sướng đến bàng hoàng. Hai tay chàng khẽ nâng khuôn mặt kiều diễm của nàng lên, và đặt vào đó những nụ hôn nồng cháy.
Như có một cái gì huyền ảo cứ len lỏi khắp trong huyết quản, khiến công chúa mềm người ra, ngã hẳn vào tay chàng. Hai người quấn quýt riết ghì lấy nhau thì tiếng ngựa ngoài thềm hí vang. Con ngựa vừa hí, vừa gõ móng dồn dập, như thúc hối một điều gì gấp gáp lắm. Chiêu Thành vương giật mình thủ thế, chàng vội buông công chúa, tay nắm đốc kiếm ngó vội ra sân. Ngọn bạch lạp hắt ra một luồng sáng mờ mờ, khiến chàng nhìn thấy cặp mắt con Hắc long đỏ ngầu. Chàng bước tới bên con ngựa, đặt tay lên vầng trán nó. Con ngựa lắc mạnh bờm hất tay chàng ra. Biết nó đang giận, Chiêu Thành vương chợt nhớ, trên đường về chàng đã ngon ngọt dỗ dành nó thế nào. Và nó đã không tiếc sức sải vó trên đường trường để đưa chàng về sớm với nàng. Vậy mà chàng đã vô tâm để nó đói khát. Ngay đến giống ngựa thồ cũng không thể đối xử như thế được, huống chi Hắc long là loài ngựa quí, và đã từng gắn bó với chàng mấy năm nay. Chàng liền ghé vào tai nó, nói những lời vỗ về dịu ngọt. Ngay trong giọng nói, chàng đã tỏ ra ân hận. Hắc long nhận ra điều ấy, đôi mắt nó chớp chớp chứ không bực bội, hằn học như trước nữa. Vừa lúc công chúa xốc áo bước theo chàng. Chiêu Thành vương quay nói với nàng:
- Em dẫn ta dắt ngựa vào tầu. Nó vừa đói, vừa mệt.
Trước khi thả ngựa vào tầu, chàng xoa bóp các bắp chân cho nó. Con ngựa khát run lên, nó đưa mũi hít khan rồi hớp hớp không khí.
- Em chỉ cho ta chỗ lấy nước, lấy cỏ cho ngựa - Chiêu Thành vương quay ra hỏi công chúa.
Một thoáng băn khoăn rồi nàng quyết:
- Chàng cứ trở lại lầu Thiên Quang đi, em khắc sai bọn thị tì làm mọi việc.
- Nàng nhớ dặn nữ tì rắc một dúm muối vào cỏ nhé. Hết cỏ, cho ăn thóc cũng được. Và nếu tiện, cho nó ăn độ chục qủa trứng gà sau khi uống nước.
Bước vào lầu, cái mà Chiêu Thành vương nhìn thấy đầu tiên là bài thơ thêu trên vuông lụa. Mới thoáng đọc hai chữ “Bồ đào”... chàng đã thuộc cả bài - chắc là nàng thêu tặng ta. Quả ta không ngờ nàng lại khéo tay đến bực này. Nhưng sao khi nãy ta không nhìn thấy các hàng chữ trên? Chàng cười thầm: bởi khi có nàng, ta không còn nhìn thấy gì khác nữa.
Khi An Tư trở lại lầu Thiên Quang thấy vương đang ngắm nhìn bức thêu, nàng vừa sung sướng, vừa e thẹn.
- Em ủy mị quá phải không vương? Xin vương rộng lượng bỏ lỗi cho.
- Công chúa thông minh lắm. Cảnh chiến địa đúng là như vậy. Ta đi thám sát vùng biên ải tuy chưa có chiến tranh, nhưng đời người lính là thế đấy. Ta chắc Vương Hàn đã từng là lính thú ải xa, hoặc là lính chiến, nên mới có xúc cảm mạnh và thực đến thế...
- Nhưng mà câu kết... thêu xong rồi em mới thấy sợ. An Tư nói ấp úng.
- Không. Không có gì đáng sợ. Phàm ở đời hễ cái gì có sinh là có diệt. Công chúa thử nghĩ xem, ai không phải một lần chết. Ngay cả đức Phật, trước khi bước vào cõi vĩnh hằng, ngài vẫn phải trả lại cái thân xác của trần thế cho trần thế. Thân nam nhi sinh vào thời loạn, được chết cho giang san nòi giống để tiếng thơm cho muôn đời, thì còn gì vinh hạnh cho bằng.
Trong khi vương say sưa luận về cái chết cao đẹp của một tráng sĩ, thì An Tư hình dung thấy những nấm mồ và những vành khăn tang chít trên đầu những người vợ trẻ, những đứa bé đang độ tuổi dắt díu bế bồng. Nàng vội nhắm mắt xua tay cho cảnh ấy qua ôi, và cũng là để cho vương đừng nói nữa. Nhưng vương nào có biết, chí của chàng đã để ở nơi da ngựa bọc thây, nên càng cao giọng, vương tiếp:
- Đại Việt ta từ khi lập quốc tới nay, chưa thời nào có họa xâm lăng lớn như lúc này. Ta hình dung, nếu cuộc chiến nổ ra, sẽ cực kỳ khủng khiếp. Đầu rơi, máu chảy không biết đâu mà lường. Vì rằng, Hốt-tất-liệt và binh sĩ của y, đều là giống quỷ hôi tanh, lúc nào cũng khát thèm máu mủ. Phải nói thật với công chúa, ta đã đi khắp biên ải, đi sâu cả vào đất Nguyên, ở đâu ta cũng thấy mùi tanh lạnh, khiến ta - một tráng sĩ cũng phải nổi da gà. Ta bèn vào trú tại một ngôi chùa cho tĩnh tâm. Và kể lại cảm giác của ta cho hòa thượng nghe. Nghe xong, người liền đi thắp một tuần nhang rồi quay lại bảo ta: - “Mùi tanh lạnh mà tráng sĩ cảm được chính là mùi tử khí. Đó là điềm báo trước sẽ có cuộc chém giết lớn lắm. Nghĩ mà khiếp sợ cho tương lai của đám hung thần, ác quỷ”. Nói xong, hòa thượng ngồi tĩnh tọa, mắt mơ màng như thả hồn về một cõi xa xăm nào đấy. Ta có cảm giác như vị lão tăng này có khả năng linh thị, và đây chính là lúc người đang giao cảm với thần linh. Phút trầm tưởng qua đi, hòa thượng trở lại vẻ điềm đạm vốn có của người già. Bất chợt người lại cất lên giọng nói trầm ấm vang xa, khiến ta linh cảm đây là lời khải thị của đấng thiêng liêng: - “Mọi người đều phải tạ thế. Ta và tráng sĩ, kẻ trước người sau, đều về huyệt mộ. Đó là mệnh số tự nhiên, do tuổi già và bệnh tật, không ai cưỡng lại được. Song tàn sát để chiếm đoạt đất nước người ta, dân tộc người ta, chỉ cốt sao cho thỏa mãn cái cuồng vọng của kẻ khát máu, thì quả chúng đã chuốc lấy tội tổ tông. Bất hạnh cho dân tộc nào có những đứa con yêu nghiệt ấy. Vì rằng, kẻ có sức mạnh thường hay tự thị, và chúng đem dùng nó vào những mục đích phi nhân. Sớm muộn rồi đất nước ấy, giống nòi ấy cũng đến ngày tuyệt diệt, ấy là nghiệp báo!”.
Công chúa An Tư bị hút vào câu chuyện kể của Chiêu Thành vương. Gương mặt nàng lúc bừng sáng, lúc tái mét. Nàng nhập chuyện như người bị thôi miên. Chính nàng cũng cảm thấy mùi tử khí lạnh tanh, và cả lời khải thị của đức Quán thế âm bồ tát từ cao xanh kia vẳng xuống. Nàng cảm thấy hoang mang hãi sợ, như là nạn đao binh đang ập đến. Đúng lúc ấy thì đám tì nữ, kẻ trước người sau, hối hả leo lên bậc tam cấp vào nhà. Họ vái chào công chúa và Chiêu Thành vương, rồi đặt mâm đồ ăn lên kỷ. Kẻ trải thêm nệm gấm vào các ghế ngồi. Kẻ tức tốc quạt lò hâm rượu. Kẻ sắp đặt bát đũa, mời mọc... Công chúa thấy lòng nhẹ nhõm.. Một cơn gió lạnh tạt vào nhà. An Tư sai đốt thêm lò trầm, nối thêm sáp vào các giá đèn. Căn phòng ấm hẳn lên, mùi trầm ngào ngạt, Chiêu Thành vương cảm thấy lòng ngất ngây. Chính chàng ra lệnh cho các tì nữ lui hết ra ngoài. An Tư cũng thấy chàng làm thế là phải, bèn vẫy tay cho đám tì nữ lui khỏi lầu Thiên Quang.
Chỉ còn lại hai người, tự tay công chúa rót rượu mời chàng. Căn phòng sực ấm, chàng liền cởi chiến bào và bảo kiếm ném lên một chiếc đôn cạnh kỷ. Lửa ấm và hơi men dã làm gương mặt công chúa và Chiêu Thành vương ửng đỏ. Nhất là công chúa, nàng có vóc dáng cân đối săn chắc, khiến nét đẹp trong nàng toát lên từ sự khỏe khoắn kiên nghị, chứ không phải là cái đẹp ủy mị yếu đuối của những công nương khuê các. Còn Chiêu Thành vương có nét đẹp khác. Chàng có khuôn mặt vừa thông tuệ vừa phúc hậu, thân thể chàng toát lên vẻ đẹp cường tráng hài hòa của một tráng sĩ pha chút mơ mộng của thi nhân.
Công chúa e ấp hỏi chàng về các việc trên biên ải. Chiêu Thành vương không dám nói hết các điều chàng được mục kích, hoặc qua tố giác của đám binh lính, rằng vẫn có những bọn ma giáo trong quân xẻn bớt khẩu phần của lính, câu kết với bọn buôn lậu đem hàng qua lại biên giới để kiếm lời. Bọn này, Chiêu Thành vương định bụng sẽ xin với quan gia và Hưng Đạo vương, xử giảo mấy tên để giữ nghiêm quân pháp. Nhưng có một điều Chiêu Thành vương thấy cần phải nói cho công chúa được am tường. Ấy là mưu xâm lược nước ta của nhà Nguyên. Chàng nói:
- Trước sau rồi nhà Nguyên cũng đem quân sang xâm lấn bờ cõi ta. Công nương đã thấy Sài Thung ngông nghênh ngạo mạn giữa đất Thăng Long thế nào. Đến cả vua ta, y cũng không coi ra gì. Còn Hốt-tất-liệt thì không thừa nhận hai vua ta mà đòi sách lập Trần Di Ái. Y còn đòi các việc khác mà ta chấp nhận, thì có khác gì là một lộ của nước Nguyên. Ta không nhận, chính là cái cớ để chúng cất quân thảo phạt. Hiện nay, một mặt chúng ép ta rất căng. Một mặt chúng đôn quân, đóng thuyền bè, khí giới, lương thảo rất gấp và với số lượng lớn, đang chuyển dịch về các tỉnh phía nam. Chiêu Thành vương ngừng lời, chàng nhìn công chúa, thấy An Tư có vẻ trầm buồn như là tư lự một điều gì. Chợt nàng hỏi:
- Dạo trước, vương có dự bàn ở Bình Than chứ? Nghe nói các vương nghị bàn căng lắm phải không?
- Chao ôi, nàng còn nhắc đến làm gì. Ta vừa đau đầu vừa đau lòng. Mọi người không phải đã đồng tâm nhất trí cả đâu. Có người còn sợ quân Nguyên nữa là khác, nói gì đến chuyện đánh.
- Có phải dạo ấy không có vương thì Quốc Toản bị khép vào quân pháp?
- Đúng. Ta phải bảo lãnh cho cháu. Nhưng nếu không có quan gia rủ lòng thương thì còn là rắc rối. Thằng bé quả là có nhiệt huyết. Nó đã lập được một đội tinh binh, luyện rèn chu đáo lắm.
- Vương có nghe tin tức gì về Trần Kiện không?
- Lại chuyện Tĩnh Quốc vương trước kia không được lập, bây giờ y thấy địa vị mình không được ở trên các vương nên hậm hực chứ gì?
- Chuyện đó qua lâu rồi. Đây là chuyện mới, chắc vương đi xa không biết. An Tư nói xong thở dài - Số là gần đây Kiện bất mãn, giũ bỏ mọi việc, không thèm biết đến thế nước lâm nguy, đem thân vào chốn lâm tuyền tu đạo thần tiên, mưu cầu sự trường sinh bất lão - Công chúa chép miệng - Chẳng biết loại người như y cầu tìm sự sống lâu làm gì, hạng ấy mà đa thọ ắt đa nhục?
- Vậy chớ sao mọi người tronh hoàng gia không giúp y tỉnh ngộ. - Chiêu Thành vương ngạc nhiên hỏi lại.
Chợt có tiếng trống điểm canh tàn, An Tư giật mình nhìn ra ngoài thềm, đã thấy một luồng ánh sáng nhàn nhạt lọt qua cửa âm dương. Giận vì đêm tàn quá nhanh mà chuyện riêng hai người chưa nói được gì với nhau. Công chúa ngả vào lòng chàng nũng nịu: “Em bắt đền vương đấy, trời sáng mất rồi, đêm nay chàng phải trở lại lầu Thiên Quang đấy nhé!”.
Chiêu Thành vương ôm nhẹ công chúa vào lòng như ôm một đóa hoa.
CHƯƠNG 16 :

Hưng Đạo vương dáng đăm chiêu tư lự. Vừa đặt xấp thư này xuống, ông lại cầm lấy xấp thư khác. Nhoài người về phía trước án thư, vương rút cây bút lông thỏ quết vào nghiên mực son, rồi khuyên những khuyên tròn nhỏ họặc đánh dấu một dấu tồn nghi bên cạnh những dòng chữ viết li ti như một đàn kiến. Chợt tên trà nô bê vào một khay chuối tiêu vàng, loáng thoáng có những đốm nâu, và một đĩa cốm xanh rờn, hạt nào hạt ấy bẹt, mỏng như được cắt ra từ một phiến lá. Y vừa đặt nhẹ chiếc khay xuống kỷ vừa nói:
- Bẩm đại vương, đức bà mời đại vương nếm chút phương vật mùa thu ạ.
Tới lúc này Hưng Đạo mới ngửng nhìn tên trà nô, và ông cũng nhìn thấy cả khay chuối, cốm.
- Hóa ra đã lại mùa thu ! Hưng Đạo nhếch môi nở một nụ cười mỉm.
- Bẩm đại vương, hôm nay là mùng mười tháng tám rồi đấy ạ Lệnh bà con đã sai nhà bếp nấu canh cua đồng để dâng đức ông vào bữa chiều nay.
Nhón vài hạt cốm trong lòng bàn tay, vương đưa lên mũi hít khan hương cốm mới rồi khen:
- Cốm dẻo, thơm quá - ông vừa nếm cốm vừa nói – Nếu không có phu nhân đánh thức ta bằng những thứ phương vật này có nhẽ ta quên hẳn thời tiết đã sang mùa.
Trong lòng ông thầm biết ơn sự chăm sóc đến tế vi của phu nhân đối với ông. Hưng Đạo vẫy tên trà nô lại dặn: “Con vào tâu với lệnh bà rằng cốm ngon lắm, ta cám ơn. Cho con lui”.
Trà nô vừa ra khỏi cửa, ông lại lúi húi với xấp thư. Đậy là thư của tướng quân Trần Đạo Tái - Một, hai, ba, bốn... chiếc do đường chim câu chuyển về phủ thái sư. Thượng tướng Trần Quang Khải, sau khi xem xong đã chuyển cả cho Quốc công tiết chế tham cứu. Vậy là ngày rằm tháng giêng năm Quý tị (1283), lúc nửa đêm quân Toa-đô tiến công vào thành gỗ bên bờ biển vũng Thị-nại. Đánh nhau dữ dội, quân chúng chết nhiều, binh thuyền đắm tới quá nửa. Quân Chiêm rút về kinh đô Chà-bàn... Hai ngày sau Toa-đô lại tiến đánh Chà-bàn. Thái tử Ha-ri-jít (Chế Mân) đã cho lui quân sâu vào rừng núi. Các kho lương thực và các đồ quân dụng, ngự dụng không chuyển kịp đều phóng hỏa đốt hết. Chà-bàn như một biển lửa, cháy suốt ba ngày. Quân ta phối hợp với quân Chàm đánh chặn các cánh quân Toa-đô tiến sâu vào đất Chàm. Quân Chàm ráo riết đánh tỉa và quấy rối quân Toa-đô suốt ngày đêm... Thái từ Ha-ri-jít đang lập mẹo trá hàng, nhử quân Toa-đô vào sâu nội địa để tiêu diệt. Quân Chàm đã xử tử hình Vưu Vĩnh Hiền và A-lan mà họ nghi là gián điệp đã bị bắt giữ từ năm trước... Thái tử Ha-ri-jít đánh thắng nhiều trận lớn. Toa-đô đã rút quân ra khỏi thành Chà-bàn về đóng ở bờ biển, chờ viện binh... Quân Chàm triệt nguồn nước, cỏ ngựa và lương thực. Quân Toa-đô đang khốn đốn... Người Chàm đã đứng vững trên mảnh đất của mình. Chờ có gió mùa đông nam, quân ta sẽ rút..
Và đúng lễ thượng nguyên năm Giáp thân (1284), Trần Đạo Tái đã dẫn toàn bộ đại đội binh thuyền đổ bộ vào cửa Hội. Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang - an phủ sứ Nghệ An thay mặt triều đình mở tiệc khoản đãi vương điệt và khao thưởng ba quân. Cánh quân cứu viện Chiêm Thành của tướng quân Trần Đạo Tái năm ấy ăn tết muộn mười lăm ngày. Và gần hai tháng sau, Toa-đô rút hết số quân còn lại ra đóng trên mảnh đất cực bắc của Chiêm Thành, giáp giới với Đại Việt. Khi biết được tin này, Trần Đạo Tái sửng sốt nhớ lại lời dặn của bá phụ Hưng Đạo đại vương, bữa người đi tiễn đoàn quân nam chinh tại cửa Thần Phù: “Nếu Toa-đô không thắng mà Chiêm Thành cũng không thua, ấy là lúc vương điệt nên rút quân về, để cùng với quân của Tĩnht Quốc vương ở Nghệ An hợp trấn mặt nam. Ta ngờ rằng nếu con khôngra sớm, thì Toa-đô sẽ ra trước con”.
Xét cách hành binh trợ giúp của Đạo Tái, tiến lui đúng lúc, vào ra kín nhẹm, khiến Quốc công tiết chế rất hài lòng. Ông hy vọng, Đạo Tái sẽ có cơ hội lập công lớn. Lại xem xét cách đánh, giữ, tiến thoái, công thủ, cũng như mẹo mưu phản gián lừa địch, dụ địch, trá hàng, thái tử Ha-ri-jít đã kình chống ngang sức ngang tài với Toa-đô, một danh tướng kỳ cựu của nhà Nguyên, thì quả thái tử cũng vào hàng tướng trí - dũng song toàn của đời nay vậy !
Xếp các tờ thư ngay ngắn vào chỗ cũ, Hưng Đạo vương bốc sang xấp khác, đây là thư của Đỗ Vỹ gửi từ Yên Kinh. Xấp thư này mới về dồn dập từ cuối tháng bảy tới đầu tháng tám.
Cứ theo như Đỗ Vỹ tâu thì tháng bảy, ngày Mậu tí năm Giáp thân( Tức ngày 12 tháng bảy âm lịch nhằm ngày 24-8-1284. ), Hốt-tất-liệt đã hạ chiếu cho con trai là thái tử Thoát-hoan (Toyan) đem hai mươi vạn binh mã, thuyền bè sang đánh Chiêm Thành, và phong cho y làm Trấn Nam vương...
Lệnh này ban ra, Sài Thung đã hấp tấp đến yết kiến thái tử. Y dâng ít đồ phương vật quý của An Nam. Sau đó, y lại hiến bức chân dung An Tư do Trần Ích Tắc vẽ, mà y gắng xin cho bằng được để bây giờ dâng cho Thoát-hoan. Thái tử ngây mặt ra ngắm nhìn bức họa với vẻ ngưỡng mộ, thèm khát. Một lúc lâu y mới cất giọng nói:
- Từ khi chinh phục xong Trung Nguyên, được xem chân dung Dương Quý Phi, ta mới thừa nhận trên thế gian này chỉ có nàng là đẹp. Nghe nói Tây Thi cũng là người đẹp lạ kỳ, nhưng chưa thấy chân dung nên khó nói. Nay xem bức họa chân dung An Tư, ta cho nàng mới là người đẹp hoàn hảo, hợp với người Mông Cổ của ta lắm. Quý Phi có nét đẹp đài các nhưng vẫn là một thứ đẹp yếu đuối, ủy mị trong cung cấm. Còn An Tư vẫn phảng phất nét đẹp quý phái kiêu sa, nhưng hơn cả là sự khỏe khoắn, hồn nhiên, tự chủ mà ngay đến Quý Phi và các nương tử con các bậc vua chúa từ đông sang tây, có tới cả trăm quốc gia bị vương phụ ta chinh phục; họ đem các nàng đến dâng hiến, khi thì cho thiên tử, khi thì cho ta, song ta cho đó là một lũ con gái có chút nhan sắc nhưng nhu nhược, yếu hèn. Phần đông cái lũ ấy, chỉ là vật trang trí, và để giải khuây trong lúc hành binh chứ không có gì phải lưu tâm.
Sài Thung cứ ngồi yên lặng lắng nghe và thầm đánh giá: “Con quỷ háo sắc này ăn phải bả mỹ nhân rồi. Đúng là có đem cả nền quốc họa Trung Hoa cho hắn, thì hắn cũng di nát dưới vó ngựa, nhưng với chân dung người con gái này, hắn sẵn sàng xuống ngựa, quì gối”. Nghĩ vậy, Sài Thung bèn làm ra vẻ nghiêm trọng nói:
- Bẩm Trấn Nam vương, cứ theo như sắc chỉ của thiên tử thì bao lâu nữa đại vương cất quân chinh phạt Chiêm Thành?
Thoát-hoan có vẻ bần thần chưa đáp lời. Sài Thung lại hỏi:
- Bẩm đại vương, thế năm vạn quân của đại tướng Toa-đô từ hai năm nay không làm gì nổi người Chiêm sao?
Câu hỏi như một mũi kim chích vào da thịt Thoát-hoan khiến y nổi cáu:
- Tên ăn hại đó bị cha con Bổ-đích đánh cho tơi bời. Y đã rút hết quân ra ém sát biên thùy Đại Việt rồi. Y lại còn xin với thiên tử lập hành tỉnh Chiêm Thành và cho thêm viện binh!
( Vị vua Chiêm già yếu này có tên là Indravarman V, người Trung Quốc gọi ông là Bổ-đích.)
Sài Thung làm ra vẻ ngỡ ngàng hỏi:
- Bẩm đại vương, thế hồi tháng hai vừa rồi, thiên tử đã phái A-tháp-hải cùng với ngót hai vạn quân và hai trăm chiến thuyền đi tăng viện cho đại tướng Toa-đô kia mà?
Thoát-hoan rầu rĩ đáp:
- Đi nhưng không đến. Tăng viện cho hải vương hết cả rồi- Thoát-hoan nhìn tận mặt Sài Thung đe - Tin này chỉ có thiên tử và ta biết, hở ra nhà ngươi mất đầu đấy. Sài Thung rụt cổ làm ra vẻ kinh sợ.
( Tên tướng Mông Cổ này có tên chính là Ataquai (A-ta-khai) tháng 2 năm Giáp thân (1284) dẫn đại quân sang tiếp viện cho Toa-đô bị bão nhấn chìm.)
Thoát-hoan dịu giọng hỏi:
- Ông đã nhiều lần qua Đại Việt, chắc ông biết rõ nội tình đất Giao Châu. Vậy theo ý ông, ta nên đánh Chiêm Thành rồi cuốn chiếu ra làm cỏ Đại Việt, hay là đánh Đại Việt trước rồi sau sẽ trị tội cha con Bổ-đích?
Chỉ cầu mong có cơ hội được Thoát-hoan hỏi đến. Sự thật, đã mấy lần Sài Thung định yết kiến Hốt-tất-liệt để dâng kế đánh Đại Việt, nhưng y chưa được thiên tử nhà Nguyên vời đến. Cái chức An Nam phó đô nguyên súy do Hốt-tất-liệt phong cho y, cùng với việc đưa tên vua bù nhìn Trần Di Ái về Thăng Long, đã bị vua tôi nhà Trần làm cho thất bại, y đang còn cay cú. Lại cũng chính lẽ đó, làm cho Hốt-tất-liệt chán y. Nhưng cái mộng làm vương đất An Nam của y vẫn cứ luôn luôn thôi thúc. Nhân được Thoát-hoan hỏi, y trình bày khúc triết. Nào Toa-đô ém quân mặt nam Đại Việt, mà bây giờ ta cất quân từ mặt bắc kẹp vua tôi nhà Trần giữa hai gọng kìm, thì việc bắt cha con Nhật Huyên về Đại đô trị tội chỉ là điều trong gang tấc. Y trình bày chi tiết đến cả từng gương mặt tướng lĩnh, khả năng phòng chống, binh khí, lương thảo của Đại Việt. Cả những kẻ sẵn sàng làm nội ứng cho quân thiên triều, Sài Thung cũng đệ trình một danh sách khá dài. Còn dân chúng Đại Việt thì mong Trấn Nam vương từng ngày, như con trẻ mong mẹ về chợ. Trong câu chuyện Sài Thung cố tình không đả động đến bức chân dung người đẹp, khiến Thoát-hoan phải lên tiếng:
- Bức chân dung người đẹp, mà dòng lạc khoản kia, chỉ cho biết tên nàng là An Tư. Vậy nàng là ai? Và tại sao ông lại dâng ta bức chân dung đó?
Sài Thung hí hửng, lúc này y mới cười thẩm trong bụng, và cố tình trình bày sự việc cho vừa ý bề trên. Y nói:
- Bẩm đại vương, nàng An Tư này là công chúa út của An Nam quận vương Trần Thái tôn. Nàng chính là em ruột của Nhật Huyên. Bức chân dung này là do chính tay Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc, anh ruột nàng vẽ. Ích Tắc là một tay tài hoa lỗi lạc bậc nhất đất Thăng Long. Cầm, kỳ, thi, họa không ngón nào là y không thông tuệ. Ích Tắc vốn ngưỡng mộ đại vương, nên y muốn dâng hiến em gái để cầu thân. Nếu đại vương cất binh sang, không những không phí công nhọc sức mà vẫn chiếm được thành trì Đại Việt, biến tôn miếu của chúng thành gò bãi, và nữa thiên kim công chúa sẽ là tì thiếp của đại vương. Bẩm đại vương, còn như tại sao bức chân dung này lại được dâng lên đại vương, ấy là bởi Trần ích Tắc có nhờ Sài Thung tôi kính chuyển tới đại vương.
- Vậy chớ tại sao ông không đưa đến cho ta từ khi ông mới ở Đại Việt về?
Sài Thung cười khà khà:
- Xin đại vương tha tội. Khi mới đi sứ về, tôi biết đại vương chưa có cơ hội chinh nam. Lại nữa việc này lộ ra, thiên tử sẽ khép tôi vào tội thông mưu với Đại Việt dùng mỹ nhân kế. Còn đại vương sẽ bị thiên tử chê là hiếu sắc, sao còn trao cho các việc nam chinh nữa. Và nếu tôi bị biếm truất hay bị trị tội, thì đại vương đâu còn có cơ may thấy được một bậc nữ lưu vào hàng kim cổ kỳ quan nữa.
Giây lâu suy nghĩ, Thoát-hoan chậm rãi:
- Ông nói có phần hợp ý ta. Từ lâu ta đã có chủ tâm đánh Đại Việt, song thiên tử còn cân nhắc, vì bọn quân trưởng và tướng lĩnh nhà Trần ương bướng lắm. Nên Người muốn bình định xong Chiêm Thành, sẽ làm bàn đạp đánh sang. Hai mặt nam - bắc kẹp lại, thì kẻ kia dẫu có cánh cũng khó bề bay nổi. Thôi được, để ta nghị bàn với các tướng rồi cùng thỉnh mệnh lên thiên tử.
Trước khi cáo thoái, Sài thượng thư còn thêm một điều, tưởng như là chẳng dính gì đến câu chuyện quan trọng hai người vừa nói. Song thực tình nó lại là điều Hốt-tất-liệt đang canh cánh lo âu:
- Đại vương nên tính kỹ, nếu sang Chiêm phen này ắt lại phải đi đường biển. Mà đường biển thì chuyến đại quân ta sang Nhật Bản những năm trước, cùng chuyến viện binh cho đại tướng Toa-đô vừa qua, đều gây thất lợi cho quân mình nhiều lắm.
Khi Thoát-hoan và bộ tướng của y, đệ trình lên Hốt-tât-liệt kế sách đánh Đại Việt thay vì đánh Chiêm Thành không phải Hốt-tất-liệt đã chuẩn y cho ngay, mà y còn cân nhắc và đưa ra tả hữu bàn tới nát nước.
Cuối cùng, chính Hốt-tất-liệt xuống chiếu đánh Đại Việt, cũng một phần là để tránh cho quân khỏi cái họa đường biển. Các danh tướng dạn dày chiến trận do đích thân thiên tử nhà Nguyên lựa chọn. Y phong cho Thoát-hoan thái tử thứ chín, một tướng giỏi do chính y đào luyện cầm đầu đội quân nam chinh. Lại chọn A-lí Hải-nha( tên Mông Cổ là Ariq-Qaya) làm phó tướng, phụ tá cho Thoát-hoan. Sau A-lí Hải-nha lại thêm danh tướng Lý Hằng.
Vậy là bộ phận đầu não của đội quân xâm lược Đại Việt đã hình thành. Đích thân Hốt-tất-liệt xuống chiếu và có sắc phong cho từng viên tướng. Sài Thung không phải là kẻ đầu tiên xướng xuất ra chuyện này. Vì mưu thôn tính Đại Việt của Hốt-tất-liệt đã có từ năm Kỷ mão (1279), tức là sau khi quân Mông Cổ vừa hoàn tất việc chinh phục nhà Nam Tống. Tuy vậy Sài Thung cũng lấy làm hài lòng, vì y đã tác động việc nam chinh của Thoát-hoan nhằm hướng chính là Đại Việt chứ không phải là Chiêm Thành. Và thế là y cũng thỏa nỗi uất căm mà vua tôi nhà Trần đã biến y thành một tên bại sứ.
Tất cả những tin tức trên, Đỗ Vỹ lấy được do nhiều nguồn Song nguồn chính vẫn là Yến Ly.
Trần Hưng Đạo lật đi lật lại những lá thư viết bằng một thứ ngôn ngữ qui ước, ông còn được Đỗ Vỹ trình thêm là quân Nguyên đang điều từ các ngả về Kinh Hồ. Và vào khoảng đầu tháng tám thì xuất chinh. Trần Hưng Đạo lại lấy bút son khuyên vào chữ “tháng tám”.
Là một tướng dạn dày chiến trận. Lại là người lầu thông binh pháp, biết mình, biết người, tiến thoái tùy lúc tùy thời, nhưng vị lão tướng ấy cũng không khỏi giật mình với một số lượng quân binh khổng lồ: năm mươi vạn tên. Cho dù trong năm chục vạn quân ấy, có tới non nửa là đám dân binh tải lương và chiến cụ, thì chỉ với ba chục vạn quân thiện chiến và dăm bảy vạn ngựa chiến, xe chiến cũng đủ làm kinh động đến toàn cõi Đại Việt.
Kiểm xét lại, trên bảy mươi năm qua, kể từ khi Thành-cát-tư-hãn khởi sự, quân Mông Cổ đã xóa sổ không biết bao nhiêu quốc gia từ đông sang tây. Bao nhiêu thành trì nghiêng đổ, bao nhiêu vua chúa bị chém giết hoặc bị cầm tù. Đất đai của đế quốc Hãn mênh mông không giới hạn. Bây giờ ngọn cờ xâm lược của chúng đang trỏ sang Đại Việt. Các tướng lĩnh được Hốt-tất-liệt chọn lựa, đều là những đệ nhất danh tướng thời nay. A-lí Hải-nha vốn người Hồi-hột. Đối với Hốt-tất-liệt, y được liệt vào hàng khai quốc công thần, là một trong ba bốn viên đại thần thân cận nhất của hoàng đế. A-lí Hải-nha là một viên tướng lỗi lạc nhất, và cũng tàn bạo nhất trong công cuộc chinh phục nhà Nam Tống. Chính y công phá Phàn Thành, Tương Dương, chiếm lĩnh Ngạc Châu, Giang Lăng và hàng mấy chục châu, quận miền nam như Khâm, Ung, Tần, Hoàng, Hải Nam... A-lí Hải-nha là một viên tướng đa tài, mưu mô hiểm độc. Y có thể đánh thủy, đánh bộ, công thành, lấp sông, tháo nước, dụ địch, trá hàng... khiến cho đối phương không biết đâu mà lường. Y cũng là một viên tướng ác độc và man rợ khôn cùng. Chính y đã tàn sát nhân dân Đàm Châu, chôn sống tất cả dân chúng ở Tĩnh Giang. Các viên tuyên phủ Chu Di Tôn, Cao Đạt ở Giang Lăng ra hàng, y còn giết chết cả vợ con. Hơn nữa, y còn đập vỡ đầu hai tướng Tống ở Tân Sinh để lấy óc họ uống rượu trước đám đông dân chúng.
Dưới trướng A-lí Hải-nha, cũng còn nhiều danh tướng khác, đã kinh qua hàng trăm trận, do chính tay y rèn cặp và cất nhắc như Áo-lỗ-xích, Toa-đô, Đường-ngột-đải, Lưu Quốc Kiệt, Trịnh Bằng Phi, Triệu Tu Kỷ, Phàn Tiếp, Ô-mã-nhi, Vân Tòng Long, Trương Vĩnh Thực...
Bên cạnh A-lí Hải-nha còn có danh tướng Lý Hằng cũng ở dưới trướng Thoát-hoan. Chính Lý Hằng đã đánh bại Văn Thiên Tường, Trương Hoằng Phạm trong thế trận Nhai Sơn, đẩy nhà Nam Tống xuống hố diệt vong.
Phải chống trả với một đạo quân thiện chiến, với những tướng tài dầy dạn như vậy, mà quân ta gần ba chục năm nay chỉ rèn luyện trong hòa bình, dân chúng cũng quen sống cảnh thái hòa, tránh sao khỏi kinh hoàng chao đảo. Hưng Đạo vương đang lo sao cho toàn quân toàn dân, muôn người như một, hết lòng căm giận quân giặc dữ, cùng sống chết với non sông, không để một tấc đất lọt vào tay quân thù.
Đêm khuya tĩnh mịch, tiếng côn trùng rỉ rả, gió thu lay động cành cây, khiến lá vàng trút rụng lao xao. Tất cả những âm thanh ấy, động tĩnh ấy Hưng Đạo vương không hề nghe thấy và cảm thấy. Ông đang tập trung tâm tư vào việc làm sao cho thế quân, thế dân đều nổi, đều sục sôi như một bể lửa. Ông biết, cả hai vua và các hàng tướng lĩnh đều chung một mối lo cho thế nước. Chính Nhân tôn, tháng mười năm ngoái đã điều các vương hầu huy động hết quân thủy, quân bộ, và đích thân nhà vua chỉ huy việc tập trận. Kể tài nhà vua cầm quân như vậy, cũng vào hàng tướng giỏi. Nhưng các chủng quân phối hợp chưa thật ăn ý. Các vương hầu chưa quen vào trận lớn. Nếu các vương hầu không có một chiến thuật chỉ huy linh lợi, trầm tĩnh, ba quân chưa có cái oai hùm sói, tướng binh chưa có tình phụ tử, chắc là không địch lại được với đám quân lang sói kia của Thoát-hoan. Nỗi lo canh cánh khiến vương ngày quên ăn, đêm năm canh vỗ gối, đầu tóc bạc phơ. Quốc công tiết chế đã lệnh cho các vương hầu cuối tháng tám này sẽ huy động toàn quân đại duyệt ở Đông- bộ-đầu. Có lẽ vương nghĩ đây là cuộc đại duyệt và cũng là trận biểu dương lực lượng cuối cùng trước khi quân Mông-Thát vào cõi. Bởi như Đỗ Vỹ phi báo, có nhanh cũng phải tháng chạp giặc mới tới được biên thùy nước ta. Vậy là ta chỉ còn bốn tháng nữa để hoàn tất mọi mặt.
Vương rầu rĩ, ruột gan quặn thắt. Ngoài thì giặc dữ đe dọa, trong thì anh em chưa thật sự tin nhau. Nếu việc trong không ổn, việc ngoài chắc sẽ khó yên. Mệt quá, vương gục xuống án thư. Ngài thiếp đi. Trong giấc ngủ chập chờn, Hưng Đạo thấy trước ông là một đám đông dân chúng và binh sĩ. Họ im lặng ngước nhìn ông, như chờ đón ở ông một điều gì nghiêm trọng lắm mà ông sắp nói ra. Và như có gì thôi thúc tự đáy lòng, ông cất lời kêu gọi: “Hỡi binh sĩ và chúng dân của ta! Các ngươi có biết tính mạng của các ngươi và số phận cả dân tộc đang nghìn cân treo sợi tóc? Giặc Mông - Thát sắp tràn vào cõi ! Thế giặc lớn lắm! Ý các ngươi thế nào? Hòa hay đánh?”
- Đánh ! - Đánh!
- Xin vương cho đánh!
- Còn một người cũng đánh!
Tiếng hô vang trời dậy đất, khiến vương giật mình tỉnh giấc. Giây lâu định thần lại, vương mới biết mình vừa trải qua một giấc mơ. Và cũng từ giấc mơ ấy gợi lại một ý tứ hào hùng, mà vương đã nung nấu trong tâm trí suốt mấy năm nay. Rằng phải có một cái gì đấy như là một lời hiệu triệu, một lời hịch chẳng hạn, để khích lệ ba quân và chúng dân lòng yêu mến thiết tha non sông gấm vóc, và dấy lên ý chí căm giận quân xâm lăng, quyết tiêu diệt chúng để bảo vệ giang san nòi giống. Nghĩ vậy, đầu óc vương thấy nhẹ nhõm, trong lòng thư thái, tay với lấy cây bút lông thỏ quệt vào nghiên mực nho. Tập giấy long tiên đã nằm ngay ngắn giữa án thư. Vương xấp ngọn bút hai ba lần định viết. Nhưng viết cái gì đây thì trong lòng vương còn ngổn ngang lắm. Đành viết “hịch”. Nhưng lời hịch giành cho ai? Cho các vương tôn quý tộc, quan trường hay cho dân chúng? Thế còn binh sĩ thì sao? Hình ảnh binh sĩ hiện lên trong óc vương như có một ma lực gì ám ảnh, khiến vương không thể nào dứt ra được. Suy ngẫm lâu lắm, vương nhận thấy: Trong chiến trận, ưu biệt nhất vẫn là binh sĩ. Chính họ là kẻ quyết định sự thành bại trong công cuộc kình chống ngoại bang. Vậy nên, không thể không kích thích hào khí nơi họ. Vương liền hạ bút viết ba chữ thật to: “HỊCH TƯỚNG SĨ”.
Rồi thuận dòng suy nghĩ, vương nêu không biết bao gương hào kiệt từ các đời Xuân Thu - Chiến Quốc đến Hán, Đường, Tống... thuần những người tận trung báo quốc, lấy tính mạng mình ra để thờ vua, giữ nước. Vương lấy làm đắc ý lắm. Chợt vương dừng bút và đọc lại những lời mình vừa viết. Hưng Đạo giật mình tự nhủ: “Thế này thì làm sao mà khơi dậy được trong tướng sĩ lòng tự tôn dân tộc, và sự khinh ghét lũ chó Hốt-tất-liệt?”. Đằm mình trong suy tưởng, vầng trán vương gợn lên những vết nhăn như sóng lượn. Hai khóe đầu sơn căn nhíu lại dựng đứng cả hàng mi, khiến gương mặt vương thêm khắc khổ. Đêm càng khuya, hơi may thổi về càng se lạnh. Nhưng mồ hôi đọng trên trán, trên cổ vương đã chảy xuống lốm đốm ướt cả trang văn. Ngay cả điều đó nữa, vương cũng không mảy may để ý. Và bỗng lóe lên trong ký ức vương, hình ảnh viên sứ giả Sài Thung. Vương nhớ như in buổi tiếp kiến y, cùng vết sẹo trên đầu vương, tóc vẫn còn chưa mọc lại, như là một chứng tích về tội ác của sứ giả thiên triều. Và nữa, các hành động ngang ngược của Sài Thung, như việc y đòi phóng ngựa qua cửa Dương Minh. Rồi tiệc yến thết sứ, y đòi phải đặt trong điện Tập Hiền, là nơi chỉ diễn ra các nghi thức trọng thể đối với các việc mang tẩm văn hiến quốc gia. Và trong khi yến ẩm, y bắt các phường nhạc cung đình phải tấu nhạc thái thường, là thứ quốc nhạc chỉ tấu trong các đại lễ như lễ tế cáo trời đất, lễ nguyên tiêu, hoặc lễ tế trong nhà thái miếu. Ấy vậy mà vua tôi vẫn phải nhẫn nhục, nhịn nín. Vương nhớ tới tất cả các thói ngạo mạn ỷ thế nước lớn, để làm những điều đê mạt mà chỉ có giống chó lợn và các loài hôi tanh, nhơ bẩn mới làm được với tất cả sự bất lương, vô sỉ. Tự nhiên trong lòng vương như bùng cháy lên ngọn lửa hờn căm, chỉ muốn moi gan xé xác loài rắn rết kia cho hả dạ. Và dường như là một sự thăng hoa của tâm linh cừu hận, vương vê ngọn bút lông trong nghiên mực, rồi viết tiếp: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, đem thân dê chó mà khinh rẻ tể phụ. Ỷ mệnh Hốt-tất- liệt mà đòi ngọc lụa, đế thỏa lòng tham khôn cùng. Khoác hiệu Vân Nam vương mà hạch sách bạc vàng để vét cạn của kho có hạn. Thật chẳng khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau...”.
( Vân Nam vương: Tức Gughêtư (Hugaci) con trai Hốt-tất-liệt, được phong làm Vân Nam vương năm 1267 tại tỉnh Vân Nam Trung Quốc, để khống chế các tỉnh phía nam Trung Quốc và làm áp lực quân sự đối với nước ta.)
Với tất cả lòng yêu thương từ ngọn cỏ lá cây đến mọi sinh linh trên toàn cõi Đại Việt, quyết không cho bè lũ Hốt-tất-liệt ngang ngược muốn làm gì thì làm. Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương như trút hết cả ý chí của mình, máu huyết của mình, và cả tủy xương mình dồn lên đầu ngọn bút, và với mong muốn truyền được tấm lòng yêu giận của mình tới từng tướng sĩ và muôn dân. Vương thường nghĩ, phải đánh quân giặc hung bạo kia, bằng tất cả những gì mà dân tộc mình có. Từ cỏ cây, sông suối, núi non, ngòi rãnh chằng chịt, hiểm trở đến cả thời khí nóng ẩm không thích hợp với lũ người phương bắc. Nhưng trước hết phải đánh chúng không những bằng sức mạnh của ba quân, mà còn bằng tinh thần quật khởi của binh dân trong toàn cõi.
Vương cứ mải miết viết cho tới lúc tàn canh. Ánh bình minh đã le lói dội những tia nắng thu vàng qua khe cửa khép hờ vào thư phòng. Tới lúc ấy, vương cũng vừa viết xong. Vương buông bút vươn vai bước qua thềm điện với đầu óc nhẹ nhõm siêu thoát, như người mới từ cõi thái hư trở về.
Sau một hồi đi dạo quanh khu hồ bán nguyệt có hàng liễu rủ, rồi quành về bãi kim cúc, hoa đã tãi vàng, hương đưa thi thoảng hòa quyện với không khí thanh khiết của buổi mai nắng đẹp, khiến vương cảm thấy như đất, trời và cảnh vật An Sinh này chưa có bao giờ lại hiện lên với một vẻ bình dị mà đằm thắm tới mức thiếu nó, cuộc đời vương cũng chẳng còn nghĩa lý gì hết. Vương khẽ nâng một bông cúc còn đang hàm tiếu, và hơi khom tấm thân đẫy đà xuống hít hà mùi hương thoáng nhẹ. Đây là giống cúc Yên Hoa, vương đưa từ Thăng Long về trồng. Loại cúc này thường được ướp trà dùng suốt cả mùa đông, mùa xuân. Hơn nữa, loài cúc này cùng với giống nếp cái hoa vàng còn dùng để cất rượu, rồi hạ thổ đủ một trăm ngày mới đem dùng. Vương ưa dùng loại rượu này hơn cả rượu thạch xương bồ. Tất nhiên, cây xương bồ lấy từ đỉnh núi về cất rượu, cũng vào loại cực quí. Sứ thần các nước được thết bằng loại rượu này, họ thích hơn cả rượu của người Thổ Phồn xứ Tây vực.
Sực nhớ đến bản “Dụ chư tì tướng hịch văn”( Tức là “Hịch tướng sĩ”) vương bèn quay về cung, sai mấy gã thư nhi đi mời tất cả các gia tướng, gia thần đến đầu giờ mão tới nhà đại bái nghị bàn.
Khi mọi người đã tề tựu rồi vương mới xuất hiện. Bữa nay, vương mặc bộ áo thụng tía, ngực thêu đôi chim phượng màu kim tuyến. Đầu quấn khăn vành dây, sau gút khăn gài một chiếc lông đuôi trĩ, sắc lông óng ánh đủ màu. Chân vương giận đôi hài cỏ bồng. Một tay cầm chiếc tráp nhỏ sơn màu cánh dán, tay kia ve vuốt chòm râu bạc. Vương thong dong bước lên bậc tam cấp, nom thư thái như một văn nhân, một nhà hiền triết, chứ không mang dấu ấn gì của một vị Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân sự trong toàn cõi Đại Việt.
Các gia thần, gia tướng và cả gia nô đều nhận thấy vương có gì vui lắm. Gương mặt hồng hào tươi nhuần, ánh mắt như hé cười với mọi người .một cách chân tình. Vương vừa bước vào thềm, hết thảy các quan đều cúi rạp đầu chào. Quốc công vừa nói vừa vẫy tay cho mọi người an tọa. Nhìn khắp lượt gia tướng, gia thần và có cả gia nô như Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô... Quốc công mỉm cười. Vương cáo cấp cho mọi người biết, thế nước đang sắp lâm vào cuộc chiến. Hốt-tất-liệt đã cử chính con trai y là Thoát-hoan thống lĩnh năm mươi vạn quân, hiện đã xuất chinh tại hành tỉnh Kinh Hồ từ đầu tháng tám. Phó tướng của Thoát-hoan là những tay lão luyện như A-lí Hải-nha, Lý Hằng. Ngoài ra còn hàng trăm viên tướng cũng đã dạn dày chiến trận. Thật ra thì các gia tướng, gia thần chấp nhận tình thế này từ lâu, nên đã được chuẩn bị chu đáo, chỉ chờ vương phát lệnh là mọi người vào cuộc chiến. Tuy nhiên, tin Thoát-hoan đã xuất chinh với một đội quân lớn đến như vậy thì trong thâm tâm, nói đúng ra, ai cũng có phần hơi ngại. Và nếu như có kẻ động dao, hoảng hốt thì đó cũng không phải là chuyện lạ. Vì rằng quân Mông - Thát là một đội quân rất ư tàn bạo, và chưa hề biết đến chiến bại.
Để mọi người bàn tán xầm xì một lát, vương lại tiếp:
- Cha con Hốt-tất-liệt ngông cuồng định ăn tươi nuốt sống Đại Việt ta, nên mới cử một đạo binh lớn như thế. Mắt vương lúc này đã có phần nghiêm lạnh, gương mặt đanh lại và giọng nói đầy quyền lực, vương tiếp:
- Cách đây hơn một năm, các ông đã dâng kế phải làm thế nào truyền được lòng căm giận quân Mông - Thát của vua quan, tướng lĩnh xuống đến bách tính. Để ai ai cũng căm ghét quân kia, thì mỗi người dân của ta sẽ là một người lính. Quân giặc đi tới đâu cũng đụng phải sức kháng cự. Nơi nơi đều là chiến địa, thì dẫu quân kia có đông tới cả triệu đứa cũng không làm gì nổi nước ta. Kế của các ông diệu kỳ lắm. Song thực hiện được là muôn khó. Lòng ta không lúc nào không để ý tới. Nay thời cơ đã đến, và việc lo chống giặc bây giờ gấp lắm. May thay, nhờ phúc ấm tổ phụ, suốt đêm qua ta đã viết xong được bài hịch mà ta ấp ủ tới cả chục năm nay. Vậy các ông thử nghe qua xem, nếu được thì sẽ trình lên hoàng thượng, rồi bố cáo cho các tướng sĩ và bách tính - Nói xong, Trần Hưng Đạo mở tráp lấy ra một tập sách mỏng đã đóng bìa, rồi trao cho Trương Hán Siêu. Vương truyền:
- Hán Siêu tốt giọng, đọc to lên cho mọi người cùng nghe.
Ai nấy đều hồi hộp. Chính Trương Hán Siêu, một chàng trai vẫn được coi là điềm đạm, gan dạ, gặp nguy mặt không biến sắc, mà tay cầm tờ hịch lòng cũng thấy nao nao. Hán Siêu thoắt nghĩ, chắc cũng là một bài hiệu triệu ba quân phải kỷ cương, gan dạ khi lâm trận. Bởi bình sinh trong việc dạy dỗ tướng sĩ, vương thường huấn hỗ điều này.
Trương Hán Siêu hít sâu một hơi vào tận huyệt đan điền để lấy lại sự bình tâm, rồi chàng cất cao giọng đọc. Càng đọc, lời hịch càng hào sảng tha thiết mà cao thượng, rõ ra cái chí của bậc thánh nhân. Lời hịch như thức tỉnh đến tận đáy sâu huyết quản của mỗi con người, hễ đã biện biệt được với loài dã thú, thảy đều phải có lòng tự trọng giữ lấy thân mình, không để cho giặc Mông - Thát kia động tới. Lại phải giữ lấy hương hỏa, phần mộ, đất đai cùng non sông nòi giống do tổ tông để lại. Lời hịch như truyền cho ta sức mạnh phi thường và lòng căm uất sục sôi, hệt như một trận cuồng phong nâng bồng khí phách và phẩm giá ta lên. Chính Trương Hán Siêu cũng thấy mình sởn gai ốc, dựng tóc gáy, máu trong tim như trào sôi, và tay chân động cựa, như muốn chồm lấy một thứ binh khí, và xông thẳng vào chiến trận đối mặt với quân thù.Sức mạnh của lời hịch thật khó lường!
Khi Trương Hán Siêu ngừng lời, chàng thấy một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Tất cả các gương mặt đều bừng bừng lửa giận, mắt đỏ hoe, và tâm trí họ như đang trút lên đầu ngọn giáo. Phút trầm hùng cao khiết tưởng như hồn thiêng sông núi đang tụ hội, bỗng ở đâu đó bật nảy lên hai tiếng đanh sắc như một lời sấm truyền: “Sát Thát !”. Thế là kéo theo những tiếng hô: “Sát Thát!” ầm ầm như trời long đất lở.
Hưng Đạo vương đọc trên từng gương mặt các tướng lĩnh và văn thần, ông biết ông đã truyền cho họ được điều mà non sông đất nước mong đợi. Quốc công thấy lòng an tĩnh, nhưng trên khóe mắt vị tướng già đã để vương một giọt lệ.
CHƯƠNG 17 :

Vài ngày sau khi “Hịch tướng sĩ” được đọc và bàn luận xôn xao trong đám gia tướng, gia thần của thái ấp An Sinh, Hưng Đạo vương bèn hỏi các tướng xem có cần thêm bớt gì trước khi trình lên hoàng thượng. Phạm Ngũ Lão và Trương Hán Siêu sau khi đã bàn kỹ với nhau và cùng bàn với một số tướng văn tướng võ khác, bèn mạnh dạn tâu:
- Bẩm vương - Phạm Ngũ Lão nói, chúng thần chỉ muốn nhân lời hịch này, Quốc công kêu gọi các tướng phải chuyên tâm học hành “Binh thư yếu lược”. Vì rằng Quốc công soạn rất công phu, từ kẻ làm tướng đến các đô, các quân và ngay cả sĩ tốt đều có thể học sách ấy mà lập nên công trạng.
Hưng Đạo vương gật đầu và đáp với vẻ khiêm nhường: “Để ta xem”. Xong Hưng Đạo hỏi các tướng việc chuẩn bị cho kỳ đại duyệt sắp tới vào ngày hai mươi tháng tám này đã xong chưa? Các tướng đồng thanh đáp: Từ tượng binh, kỵ binh, thủy binh, bộ binh thảy đều đã sẵn sàng, chỉ chờ lệnh của vương là xuất phát. Tướng gia nô Nguyễn Địa Lô được Quốc công gọi riêng căn dặn:
- Ngươi cùng với Yết Kiêu, Dã Tượng đều là chân tay của ta. Tiếc rằng ngày đại duyệt toàn quân sắp tới, ngươi không được tham dự để thấy hết khí thế quân sĩ của ta. Hưng Đạo ngừng lời, vương thấy Nguyễn Địa Lô nghe lệnh một cách chăm chú. Vương biết, thuộc hạ của ông đã sẵn sàng, dù cho ông có sai họ nhảy vào lửa.
Với giọng nói ân cần, nhưng có phần nghiêm trọng, vương tiếp:
- Thế giặc lần này lớn lắm, không thể đánh một trận mà xong ngay được. Vậy ngươi phải lên ngay vùng ải bắc, cùng với đầu lĩnh Nguyễn Thế Lộc ở trên đó đón đợi.
- Bẩm vương, con xin lĩnh mệnh. Nguyễn Địa Lô nói với một tấm lòng thành kính.
- Hãy nghe ta nói đã - Quốc công tiếp - Không phải các ngươi đón đánh quân Mông - Thát khi chúng mới tràn sang. Lúc ào vào cõi ta, chúng đi như thác lũ, các ngươi sao ngăn nổi. Chính là các ngươi phải giấu kín lương thực vào sâu trong các hang động hẻo lánh, mà ngay cả dân địa phương cũng không hay biết. Khi quân kia đã dấn sâu vào đất ta. Vùng biên ải chúng chỉ còn rải một lực lượng mỏng, để hộ vệ đám quân chuyển lương. Có thể khi lâm chiến, việc liên hệ giữa đại bản doanh của ta với các ngươi trên ấy, sẽ thưa vắng hoặc gián đoạn. Song, hễ khi nào thấy quân giặc đi lại nghênh ngang, canh phòng chểnh mảng. Ấy là lúc đại quân của chúng đã vào sâu trong cõi, mà quân ta thì đang gặp khó khăn. Chính lúc ấy, các ngươi nên tung lực lượng ra mà đánh. Đánh vào những nơi sâu hiểm của chúng. Đánh vào những nơi chúng phòng bị sơ sài. Gắng triệt hạ được thật nhiều quân lương của chúng, và làm tắc nghẽn các đường tiếp tế lương thảo. Nên chia quân ra mà đánh, kẻ kia tưởng ta có mặt ở khắp nơi, khiến chúng hoang mang, hoảng loạn. Bởi thế, thành tựu thu được còn lớn hơn nhiều số quân, lương của chúng bị các ngươi diệt, hủy.
Bỗng Quốc công nghiêm giọng, người dằn từng tiếng như để cho viên tì tướng kia khắc cốt ghi tâm - Đây là một công việc cực kỳ hệ trọng, ngươi phải truyền dặn cho Nguyễn Thế Lộc thấu hiểu ý ta. Nếu làm sai mệnh ta, thì tai họa không biết đâu mà lường. Ngươi nên nhớ, việc thành bại còn ở chỗ, các ngươi có gan tàng ẩn thật kín nhẹm hay không? Ngừng lại giây lâu như để cân nhắc thêm, Quốc công lại nói:
- Còn một việc nữa, ta nghe Chiêu Thành vương tâu trong quân, có kẻ ăn chặn khẩu phần của sĩ tốt. Lại có kẻ thông đồng với đám gian thương, qua lại biên ải bán buôn kiếm lời. Ngươi lên trên đó, cùng với viên quan biên trấn, phải làm rõ việc này. Nếu quả như vậy, sau khi tìm ra đúng kẻ tội nhân, ta cho tiền trảm hậu tấu để làm gương răn kẻ khác. Vả lại, nếu luật pháp không nghiêm, lòng quân sinh nản. Lại nữa, nhằm lúc sơ hở, lũ nhà Nguyên có thể cho gián điệp trà trộn vào hàng ngũ của ta. Việc gấp lắm rồi. Ta cho ngươi ba ngày về nhà từ giã vợ con, rồi tức tốc đi theo đường ngựa trạm. Trước khi đi, ngươi đến dinh ta nhận binh phù.
Nguyễn Địa Lô cúi đầu vái lạy.
Lại nói đến chuyện ở Thăng Long, khi Trần Nhân tôn nhận được “Dụ chư tì tướng hịch văn” cùng với lời khải rất khiêm ái của Quốc công tiết chế, nhà vua đọc một mạch, cảm thấy toàn thân nổi da gà. Lời hịch đi thẳng vào huyết quản, bất chấp sự lĩnh hội của trí tuệ, khiến đức vua có cảm giác như đây là lời sấm truyền được toát ra từ khí thiêng sông núi. Lập tức nhà vua vào ngay cung Thánh từ trình lên thượng hoàng.
Trần Thánh tông đọc xong, với giọng rưng rưng cảm động:
- Quan gia, có phải đây là hồn nước không con? Ta không tin vào chữ nghĩa và ngôn từ nữa. Chính đây mới là đạo quân hùng mạnh nhất của Đại Việt ta để kình chống với giặc Mông - Thát.
Nhân tôn lấy làm đắc ý, bèn thưa:
- Tâu phụ hoàng, có nhẽ đưa Hịch văn này sang bên hàn lâm viện để họ nhân bản. Và ngày đại duyệt toàn quân sắp tới sẽ cho truyền hịch này, rồi sau đó phát cho mỗi đô quân một bản để truyền thấu tận sĩ tốt.
- Không những thế, Hịch này còn phải được truyền tới tận các thôn cùng xóm vắng, để trăm họ được biết, và cùng chăm lo việc đánh giặc giữ nước với triều đình.
- Bẩm vâng, con sẽ truyền. Ngẫm nghĩ giây lâu Nhân tôn lại nói - Tâu phụ vương, con đồ rằng Hịch này truyền tới muôn dân, sẽ đem lại sức mạnh siêu thần nhập hóa. Giặc Mông - Thát hẳn không lường nổi sức mạnh của lòng dân Đại Việt.
Trước khi trở về ngự tẩm, vua Nhân tôn sai trung sứ( người hầu cận của vua) đem bài Hịch cùng với biểu chương của Quốc công tiết chế sang phủ thái sư cho thượng tướng Trần Quang Khải xem. Nhân tôn vốn người trầm tĩnh, điềm đạm, vậy mà khi đọc xong lời Hịch, ông không thể không lập tức đem trình cha. Và bây giờ, ông lại đưa sang cho chú. Rồi sớm mai thiết triều, chắc chắn nhà vua sẽ bố cáo lời Hịch cho bá quan cùng nghe.
Đêm về khuya, Nhân tôn thao thức không sao ngủ được. Qua lời Hịch, ông nghĩ về Hưng Đạo, người cha vợ của mình, như nghĩ về một bậc thánh hiền. Lời lời như được tụ kết từ khí thiêng sông núi, hẳn phải nung nấu trong tâm trí vương biết bao năm ròng. Chắc chắn qua Hịch này, những ai còn chút nghi kỵ vương đem lòng kia khác, sẽ thôi ngờ vực, tị hiềm. Nhân tôn cố nhắm mắt, và muốn chìm vào giấc ngủ để sớm mai còn thiết triều, còn chia sẻ niềm vui này với bá quan văn võ. Nhà vua đã nhắm mắt, mà như vẫn nhìn thấy các tia sáng lọt qua khe cửa vào trong cung, như những sợi chỉ trắng đặt trên miếng thạch đen. Và đâu đây tiếng trống từ ngoài phường phố cứ vang lên. Nghe nhịp trống, nhà vua nhận ngay ra là trống múa sư tử, múa tứ linh - “Vậy là trung thu!” - Nhân tôn chợt nhớ ra - Đúng thế, bữa nay là rằm tháng tám, thảo nào trăng sáng. Nhà vua như hối hận vì quên cả năm tháng, quên cả thăm hỏi, quà bánh cho các con.
Đêm khuya, trăng xế, các tia sáng nhạt dần rồi mất hẳn. Nhưng lại vang lên tiếng sáo diều. Tiếng sáo diều như gọi nhớ tuổi thơ. Những năm thơ trẻ, nhà vua thường hòa nhập với đám con trai ngoài phường trại đi săn bắn, hoặc đi thả diều... Tiếng sáo vi vút như gần như xa. Nhà vua nằm nghiêng, áp tai xuống long sàng để nghe cho rõ. Thoạt tiên là những tiếng đu đu đứt quãng. Sau đó là tiếng ròn ròn dõng dạc vang xa như tiếng cồng thu quân. Tiếng cồng khiến nhà vua nhớ đến một loại sáo đại, cắm ở trên đầu những cánh diều to như những con thuyền. Ấy là những chiếc sáo mà miệng được khoét từ các loại gỗ nhẹ, mịn thớ không nắng gió nào làm cho co nứt như gỗ gáo, gỗ thị, còn thân sáo là những ống tre, ống trúc. Tùy theo loại sáo to nhỏ mà chọn tre, bương, hoặc trúc. Loại diều lớn vài chục sải cánh, phải đeo sáo cồng, to bằng bắp vế. Tiếng sáo đang vẳng vào trong cung, chính là sáo cồng. Đêm càng khuya khoắt, nhà vua càng nghe rõ những âm thanh réo rắt từ trời cao vọng xuống. Nghe như có tiếng rỉ rên dài dài, cả tiếng than vãn nức nở. Lại có cả tiếng choi chói, the thé rít lên như tiếng còi. Ấy là tiếng của các loại sáo đẩu, sáo còi hòa quyện với sáo cồng thành một thứ thanh âm đa cung bậc. Càng nghe, các âm thanh càng rõ dần càng mạnh lên. Đức vua không còn cảm giác rằng các âm thanh kia từ trời cao vọng xuống, mà từ mặt đất nó đang bay, bay vút lên mặt trăng. Tiếng sáo diều đã đưa nhà vua vào giấc ngủ muộn. Trong giấc ngủ chập chờn nửa trần thế nửa thiên tiên, Trần Nhân tôn mơ thấy quân Mông - Thát tràn vào cõi, ào ào như nước từ Ngân hà ụp xuống. Vó ngựa Mông Cổ cứ tung hoành khiến bụi phủ mờ cả vầng trăng, và tiếng khóc cứ ri ri, ri ri như quỉ sứ đang tấu khúc nhạc sầu. Chợt có tiếng nổ xé trời như sét đánh, nhà vua giật mình mở choàng mắt. Ánh ngày đã tràn ngập cả ngự tẩm. Đức vua toát mồ hôi ướt đẫm y phục. Nghe tiếng thét, tráng sĩ Đặng Dương đẩy cửa bước vào. Thấy nhà vua mặt mày tái mét, chàng sụp tâu:
- Bẩm quan gia, có điều gì bất như ý mà người thét to vậy?
Nhà vua vẫy tay cho Đặng Dương tới gần, ngài phán:
- Ta mơ ngủ. Một giấc mơ khủng khiếp. Quân giặc sắp tràn vào bờ cõi rồi! Mặt nhà vua buồn rười rượi.
- Xin bệ hạ bình tâm. Đặng Dương vừa tâu vừa sụp lạy.
Đặng Dương, tráng sĩ toàn năng trong hội thi võ đã được Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Quốc Trung đưa về dưới trướng. Rồi sau đó Tuệ Trung lại đem dâng vua Nhân tôn. Với con mắt tinh tường, Tuệ Trung nhận thấy nơi tráng sĩ này, không chỉ có tài cao võ thuật, mà còn có lòng trung nghĩa vô hạn. Những con người như thế túc trực hầu hạ bên vua, lúc thường cũng như lúc hữu sự, là điều khiến Thượng sĩ yên tâm.
Đặng Dương là một người ít học, nhưng cũng biết suy nghĩ thấu đáo. Chàng thầm nhủ: “Chắc nhà vua lúc nào cũng nghĩ kế sách chống giặc Mông - Thát, nên trong giấc ngủ cũng mơ thấy giặc”. Nghĩ thế, nhưng tráng sĩ không sao tìm được lời nói để an ủi đức vua. Chàng cứ tần ngần đứng nhìn vào một điểm ở góc long sàng. Nơi ấy người ta chạm nổi một con rồng, và gắn cho nó cặp mắt bằng đá ngọc lưu ly. Bốn góc bốn con rồng chầu vào đức Nhân tôn. Vừa tỉnh giấc, nhà vua nhỏm người dậy, đôi mắt ngài ngự ánh lên màu xanh khiến Đặng Dương nghĩ tới bức tranh “Cửu long tranh châu” treo nơi đại điện, và nhà vua chính là hạt châu - hạt châu lớn nhất Đại Việt - hạt châu lớn nhất thế gian. Nghĩ vậy, trong lòng tráng sĩ thấy vui vui.
Chợt nhà vua hỏi:
- Ta nghe như có trống thu quân ở đâu sớm vậy, Nhân tôn hỏi bất chợt. Đặng Dương lắng theo nhịp trống, rồi tâu:
- Bẩm quan gia, trống ngoài hồ Thủy Quân. Đêm qua con thấy đức ông hoàng Sáu đưa quân thủy vào lập trại.
( Hồ Thủy Quân, cũng có tên là Hồ Tả Vọng. Đây là hồ lớn dùng để luyện tập quân thủy của nhà Trần. Trước đây hồ rộng từ khu vực Hoàn Kiếm hiện nay liền với cả khu Vọng Đức, Tràng Tiền, Cầu Gỗ, Hàng Buồm thông với Hàng Than quành về Hàng Chuối và bến Đông bộ đầu xưa. Từ đó thông ra Hồ Tây và ra sông Cái (sông Hồng) theo ngả Quảng Bá. Tên Hoàn Kiếm mới có từ thời Lê- thế kỷ 15.)
- A, sắp tới ngày đại duyệt toàn quân! Vua Nhân tôn nói như reo. Nhà vua lấy làm hài lòng về ông chú mẫn nhuệ. Một người làm việc gì cũng chu đáo. Nhưng bề ngoài lại thảnh thơi nhàn hạ như không, khiến nhiều người tưởng Nhật Duật là người chỉ ham mải các cuộc chơi vui.
Song phải thừa nhận, ông là người thông minh hiếu động. Ông ở nhà thì không lúc nào là không có các trò vui. Khi thì đàn hát, khi thì cờ bài, khi thì thơ phú xướng họa. Ông ở trong quân thì náo động bởi các cuộc thi: đấu võ, đấu vật, bắn cung, chèo thuyền... Lúc nào trong quân ông cũng vui như hội.
Bỗng nét mặt nhà vua tươi hẳn lên. Ngài sai Đặng Dương đi lấy một cái côn, rồi đức vua phi một mạch ra vườn ngự. Đặng Dương chạy theo, gần tới nơi đã thấy nhà vua múa tít cây gậy, tả xung hữu đột, bước tới bước lui cứ thoăn thoắt, khiến tráng sĩ cũng phải ngạc nhiên về võ nghệ của đức vua. Người có nghề, chỉ thoáng nghe tiếng côn vút gió, và tiếng di động bước chân, cũng đủ biết nội lực của nhau thâm hậu hay sơ sài. Thấy đức vua luyện võ, Đặng Dương mừng lắm. Bởi mai đây vào cuộc chiến, không biết thế nào mà nói trước được.
Buổi chầu hôm nay trái với lệ thường, nhà vua đến hơi trễ. Thông thường cứ đầu giờ mão, các đại thần đã tề tựu cả ở đại điện, độ một khắc sau thì nhà vua bước vào. Hôm nay, mãi đầu giờ thìn, vua Nhân tôn mới ra thiết triều, ấy là bởi nhà vua có ghé qua vài nơi tập kết quân của các vương hầu, các lộ, trấn về dự đại duyệt. Buổi thiết triều hôm nay, nhà vua bố cáo cho bá quan biết việc nghiêm trọng nhất của quốc gia là Hốt-tất-liệt đã khởi binh đánh ta.
Các quan cũng đã nghe bàn về việc này, nhưng nay được nói ra từ miệng đức vua, ai nấy đều bội phần xúc động và lo cho thế nước.
Nhân tôn nói dằn từng tiếng chậm rãi như người đếm, để nén nỗi uất căm:
- Hốt-tất-liệt phát năm mươi vạn binh, cho con trai y là Thoát-hoan thống lĩnh cùng với những viên tướng dạn dày vào hàng đệ nhất công thần phụ tá. Quân khởi từ hành tỉnh Kinh Hồ cách đây một tháng - Nhà vua lại hít sâu, đề khí vào huyệt đan điền cho tâm thần an tĩnh, và tiếp - Chúng ta đã nín nhịn, đã thần phục, đã triều cống họ đủ thứ. Nhưng vua tôi nhà Nguyên như một lũ hổ đói, ta càng cống nạp, chúng càng đòi hỏi. Nay không thỏa mãn, chúng cử binh xâm lấn. Để vãn hồi tình thế, đầu tháng bảy, ta đã sai trung đại phu Trần Khiêm Phủ làm chánh sứ sang hành tỉnh Kinh Hồ xin nhà Nguyên cho hoãn binh. Kíp đến đầu tháng tám này, ta sai Đoàn Ái, Lê Quý sang sứ nhà Nguyên. Cách đây vài ngày thượng hoàng hối thúc ta sai thiện trung đại phu Nguyễn Đạo Học sang sứ nữa. Trước sau ta chỉ một mực xin nhà Nguyên cho hoãn binh. Hiện thời vẫn chưa có hồi âm – Đức vua nén một hơi thở nhẹ, ngài lại điềm đạm nói - Thật ra còn nước còn tát, để rồi không còn gì phải ân hận trong thuật bang giao, cũng như trong đạo nhường nhún của nước nhỏ đối với nước lớn. Nhưng muốn cho lời nói của ta thành nguyện vọng và ý chí hòa bình của cả dân tộc, không gì có thể minh chứng vững vàng bằng Đại Việt ta phải có một lực lượng đủ mạnh, để kình chống được đội quân hùm sói kia, thời tham vọng bành trướng vô lối của thiên triều mới dần dần giảm thiểu.
Vậy các khanh nghĩ thế nào, và có mưu lạ chước hay gì ngoài các điều ta đã làm cho việc binh, việc lương, việc dân thời các khanh cứ thực lòng tâu lên để giữ nước. Ấy là việc ngoài to lớn, còn việc trong, có hai điều hệ trọng. Trước mắt là tới ngày 20 tháng tám này, ta sẽ đại duyệt toàn quân. Tổng quản ta đã trao cho quốc công tiết chế Hưng Đạo vương coi xét. Trấn, lộ nào bê trễ, cứ chiểu quân pháp thi hành - Ngừng một lát, nhìn khắp triều quan, thấy các đại thần vẻ lo âu hiện lên từng gương mặt. Nhà vua rất hài lòng, vì mọi người đã cùng chung lo việc lớn quốc gia. Vua lại truyền - Để khích lệ ba quân cùng chúng dân trăm họ, Quốc công tiết chế vừa soạn xong một bài “HỊCH”, ta đã cho nhân bản. Nay phát trước cho trăm quan về đọc, nghĩ thấy điều gì cần tu chỉnh, thời phải sớm tâu lên để còn kịp truyền cho toàn quân vào ngày đại duyệt. Nói xong, vua cho bãi triều rồi đi thẳng ra khu các trại quân.
Vua Nhân tôn vào trại của tướng quân Trần Nhật Duật. Chiêu Văn vương lật đật ra đón, không kịp cả xỏ chân vào dép. Tướng quân toan sụp lạy, nhà vua vội chạy lại đỡ dậy:
- Chú là bề trên, sao cứ thủ lễ quá chừng?
- Muôn tâu bệ hạ, muốn giữ được kỷ cương, thì lễ phải là điều nghiêm cẩn bảo tồn. Lễ mà tùy tiện thì luật dễ bị khinh nhờn. Bệ hạ nên nhớ, tình tôn tộc là ở trong nhà. Và chỉ ở trong nhà thôi. Trần Nhật Duật nói vậy, nhưng ông là một người rất dễ thương. Có nhẽ cũng vì lòng cảm mến đó mà Nhân tôn hay đến thăm ông. Nhật Duật tươi cười hỏi nhà vua:
- Sao bệ hạ biết thần về mà đến thăm?
- Đám tụng quan( quan phục vụ trong nội cung) nói chú đưa quân về lập trại từ đêm. Vừa tan chầu xong là ghé thăm chú ngay.
Chiêu Văn vương mời nhà vua vào trung quân. Triệu Trung đang ngồi trên kỷ vội nhảy xuống sụp lạy. Vua cho ngồi, rồi hỏi:
- Triệu tướng quân vẫn mạnh chớ?
- Muôn tâu thánh thượng, thần vẫn được bằng an.
- Nhưng cha con Hốt-tất-liệt không để cho chúng ta an Dâu. Tướng quân biết cả rồi chứ?
- Dạ bẩm bệ hạ biết ạ. Chúng thần đang bàn việc “tiếp đón” Thoát-hoan, sao cho chúng cứ mỗi khi nghĩ đến Đại Việt là phải nổi da gà, như mỗi khi chúng nghĩ đến việc vượt biển đánh vào Nhật Bản vậy.
Nhân tôn trong lòng vừa vui, vừa nghi ngờ pha chút khinh kẻ vong thần nhà bại Tống này. Đức vua vui còn vì đám nhà vong Tống này đang góp phần chung lo với quân dân Đại Việt. Nhưng mấy chục năm qua cũng cho thấy trong đám người vong quốc ấy không thiếu gì kẻ lộng ngôn, chỉ cao đàm khoát luận, chê bai hết nhân vật này đến nhân vật khác trong lịch sử, cũng như trong hiện tại. Rồi lại khích bác lẫn nhau, tranh giành xâu xé nhau, chỉ vì các thứ danh hão lợi hờ mà quên mình là kẻ vong quốc, quên rằng nước Đại Tống của người Trung Hoa đang rên xiết dưới vó ngựa quân Mông- Thát. Đức vua có cảm giác như bọn này họ quên cả quốc nhục quốc thù, yên tâm nương náu trọn đời nơi đất khách. Song nghĩ cũng thương tình, họ còn biết làm gì hơn thế nữa.
Nhà vua quay lại nói với Trần Nhật Duật:
- Chú Chiêu Văn à, binh lực chú sắp xếp ra sao. Nghe nói chú có một đội binh thuần người Tống, mặc quần áo Tống tham gia trong quân của chú?
- Đúng như thế đấy ạ, tâu hoàng thượng. Nhìn thần sắc đức vua, tuy có lo nhiều việc nước, nhưng tướng vẫn tươi nhuần vững vượng lắm. Dù nhà vua tuổi nhỏ, nhưng điều hành bộ máy quốc gia tỏ ra có bản lĩnh, trên dưới chặt chẽ, trong ngoài qui củ. Lại thêm cái đức khiêm ái kiệm cần, tưởng đến như Lê Hoàn, Lý Thái tổ hoặc Hán Quang Võ, Đường Thế tôn cũng không thể hơn được. Chợt nhớ nhà vua hỏi về đội binh Tống, Trần Nhật Duật vội thưa:
- Tâu quan gia, trong số vong thần nhà Tống vào tá túc ở bản phủ, số người kể có hàng vạn. Nhưng phần nhiều đã sắp xếp cho họ về các trang ấp làm ruộng. Hoặc giả như ai có nghề nghiệp thì cho phối làm với các nghề của ta. Nếu vì nghề của họ cao hơn, hoặc lạ hơn, thời cho họ lập riêng lò xưởng để làm như nghề sành sứ, nghề nhuộm vải, nghề bào chế dược liệu và trị bệnh trong dân. Chọn trong số trẻ trung, mạnh khỏe, thần dồn vào được khoảng hơn sáu mươi đô. Mấy năm nay cho luyện tập đều đặn dưới sự coi sóc của Triệu tướng quân đây - Trần Nhật Duật vừa nói vừa chỉ tay về phía Triệu Trung. Triệu Trung lại đứng dậy vái vua Nhân tôn. Đức vua vẫy tay cho phép Triệu Trung ngồi xuống. Trần Nhật Duật lại nói:
- Thần định sớm tối hôm nay phải vào triều kiến, xin quan gia cho phép đội quân này được mặc sắc phục Tống, dùng binh khí Tống.
- Vì sao vậy? Nhà vua hỏi.
- Tâu, đó là sở nguyện của họ. Một là để bầy tỏ với mọi người, lòng họ vẫn hướng về cố quốc. Hai là để trả cái ơn tri ngộ của Đại Việt trong những năm họ tá túc trên đất ta, được nhà vua cho hưởng mọi điều ưu hậu. Ba là kẻ thù của ta cũng chính là kẻ thù của họ, nên họ muốn góp xương máu với ta để rửa hận.
Một thoáng suy nghĩ, Nhân tôn thấy có thể chấp nhận được Hơn nữa, việc này còn gây tâm lý thất lợi rất nhiều cho binh lính Thát-đát, một khi chúng biết có người Tống đánh lại chúng trên đất Đại Việt.
Vừa gật đầu, nhà vua vừa nói:
- Thôi được, Triệu tướng quân, vua Nhân tôn nói thẳng với Triệu Trung - Ta chấp nhận sở nguyện của các ông, nhưng phải đánh lũ Mông - Thát này bằng tất cả sự hùng tâm, hùng khí của dân tộc Trung Hoa để mà trả cái hận Nhai Sơn. Ông hiểu ý ta chứ?
Triệu Trung quỳ lạy:
- Muôn tâu hoàng thượng, chúng thần có cả thảy năm ngàn người, phiên chế làm sáu mươi hai đô, chiến đấu dưới cờ của Chiêu Văn vương tướng quân, xin được nhận công việc như hai quân. Sơ sót điều gì xin chịu tội. Nếu xảy ra việc nhút nhát để thua; nếu xảy ra việc ngu tối mà trúng vào kế giặc để thua, để nhục; chúng thần xin được cùng chết để tạ tội.
Vua Nhân tôn lấy làm bằng lòng lắm. Ngài nói - Trong quân bất kể là người Đại Việt hay người Tống, hễ ai lập được công lớn, sẽ có trọng thưởng.
Nhà vua đã toan đứng dậy, Nhật Duật vội nói:
- Xin bệ hạ nán lại vài giây, thần có một việc riêng, mong bệ hạ gia ân.
Biết ý, Triệu Trung vái nhà vua và chủ tướng rồi đi giật lùi ra ngoài. Vua Nhân tôn nhìn Trần Nhật Duật rồi mỉm cười, hỏi:
- Còn việc gì nữa chú Chiêu Văn? Chú định dọn tiệc rượu hay bầy cuộc hát?
Trần Nhật Duật xua tay:
- Tâu bệ hạ, các việc ấy thần đều đã dẹp bỏ, ăn chơi bây giờ không phải lúc. Chẳng biết bệ hạ có nhớ cái tên mà bệ hạ giao cho chức trông nom ao cá của bệ hạ không nhỉ?
Nhân tôn nhăn vừng trán như cố nhớ ra một điều gì đó. Chợt như tươi hẳn lên nhà vua nói:
- Nhớ ! Nhớ ra rồi, chú Chiêu Văn. Việc lâu rồi đấy. Bốn năm năm rồi còn gì?
- Dạ đúng, từ năm Canh thìn (1280).
- Cái thằng bé con của tù trưởng Trịnh Giác Mật chú nhận nó làm nghĩa tử chứ gì?
- Dạ phải.
- Thế bây giờ chú định tính sao?
- Tâu bệ hạ, việc quân Nguyên xâm lấn là điều không tránh khỏi. Có giữ thằng bé ở lại, nó cũng chỉ hầu hạ đức vua thôi chứ không dùng vào việc lớn được. Nhưng nếu vỗ về nó, gia phong cho cha con nó thêm một vài phẩm tước gì đấy, thì chính nó cũng trở thành một viên tiểu tướng ở vùng phên dậu của ta. Thế giặc lần này mạnh lắm. Phải chia sức ra mà đánh. Vì vậy, thần đã nói nó mấy hôm nay rồi, để nó về lập lấy một đội binh. Khi giặc ồ ạt kéo vào thì tìm đường ẩn nấp. Khi giặc đánh mạnh ở dưới xuôi, thì tung quân ra mà đánh chẹn, mà quấy rối chúng.
- Được. Được lắm. Mưu chú cao đấy - Nhà vua vội chen lời- Ý thằng bé thế nào?
- Tâu bệ hạ, nó vui lắm. Ta cho nó về, bằng thả hổ về rừng. Ở Thăng Long tuy có quan chức, có kẻ hầu hạ, nhưng nó vẫn coi là bị tù túng. Bệ hạ nên vỗ về nó, để sau ngày đại duyệt toàn quân, thần thân dẫn nó về trao cho Trịnh Giác Mật, rồi bàn luôn kế đánh giặc và ủy thác trách phận cho y.
- Chú lo giùm việc ấy, tôi thật yên tâm.
- Thần xin lĩnh mệnh. Trần Nhật Duật cúi đầu vái Trần Nhân tôn. Nhà vua đỡ dậy, rồi vua tôi nắm tay nhau cùng đi ra ngoài trại. Cho tới khi Nhân tôn lên kiệu đi khuất rồi, Chiêu Văn vương mới trở lại quân doanh.
CHƯƠNG 18 :

Chỉ còn vài ba ngày nữa là tới hạn kỳ đại duyệt toàn quân, Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn thân dẫn chu sư về Thăng Long. Các gia tướng của ấp An Sinh thuộc lộ Hải Đông như Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Trí vương Trần Quốc Hiến, Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, đại tướng quân Phạm Ngũ Lão cùng các tướng Yết Kiêu, Dã Tượng... đều dẫn các đội bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh... theo các ngả đường thủy, bộ cùng tiến về Thăng Long.
Chu sư của quốc công về tới cửa sông Cái vào khoảng canh ba, ngày mười bảy tháng tám, thì giong thẳng buồm vào hồ Dâm Đàm. Quốc công sai hạ buồm và ẩn giấu binh thuyền quanh các đảo trong hồ. Căn dặn viên đô đốc xong đâu đó, Hưng Đạo cho lâu thuyền vào hồ Thủy quân rồi lên kiệu về thẳng tướng phủ.
Sáng sớm, quốc công lên ngựa vào cung Thánh từ vừa lúc thượng hoàng Trần Thánh tông đang dùng trà. Hưng Đạo sụp lạy, Thánh tông vội vàng nâng dậy và nói:
- Anh em trong nhà gặp nhau, sao vương huynh phải thủ lễ làm vậy.
- Tâu thượng hoàng, lễ là khởi đầu của mọi mối rường, bệ hạ có yêu mà miễn thứ, thần cũng không dám vâng theo.
Thánh tông vừa dẫn Hưng Đạo vào kỷ vừa nói:
- Vương huynh cứ bầy vẽ, lễ là ở chốn triều chính, chớ trong nhà, phải theo đạo nhà. Vương huynh là bề trên.
- Ấy chết, sao bệ hạ dạy thế ! Hưng Đạo vẫn điềm đạm nối lời.
Uống chưa xong một tuần trà, Hưng Đạo và Thánh tông mới thăm hỏi nhau được đôi điều thì Trần Nhân tông đã vào chầu.
Nhân tông tuy ở ngôi cao, nhưng lòng vẫn khôn nguôi đạo hiếu. Tuy đã ra ở cung Quan triều coi sóc việc nước, song thường nhật vào lúc sáng sớm, nhà vua vẫn tản bộ sang cung Thánh từ để vấn an vua cha.
Vừa gặp thân phụ, vừa gặp nhạc phụ, Nhân tông bèn sụp lạy. Đúng lúc Hưng Đạo cũng toan quỳ lạy cho phải đạo vua tôi nhưng Thánh tông đã kịp ngăn lại.
Vừa xong lễ tương kiến, Nhân tông liền tỏ lòng ái mộ bản “Dụ chư tì tướng hịch văn” của quốc công tiết chế. Nhà vua nói :
- Bẩm quốc phụ, làm thế nào mà Người viết ra được những lời tâm huyết thiêng liêng dường ấy! Đọc xong, con cứ cảm nghĩ như hồn thiêng sông núi của Đại Việt, đã kết tụ từ ngàn năm vọng lại qua bổn tâm đại hùng đại lực của quốc phụ.
- Bệ hạ quá khen - Quốc Tuấn đáp - ông hơi ngượng với lời khen đó, sắc mặt ông bỗng ửng đỏ, ông đưa tay lên vuốt chòm râu.
Nhân tông dường như không nghe Quốc Tuấn nói gì, và nhà vua cũng không để ý tới nét thay đổi trên gương mặt vị tướng già. Rõ ràng là hoàng thượng chỉ chú tâm bộc bạch điều mà người đã đau đáu suy tư về bức “Hịch văn” của quốc công tiết chế. Ngài lại nói:
- Thượng hoàng muôn phần đẹp ý về bản “Hịch văn” của quốc phụ. Tiều tử đã đưa cho sử quan Lê Văn Hưu chép vào quốc sử. Lại định tới ngày đại duyệt này, sẽ đưa ra bố cáo trước toàn quân, để khích lệ lòng ái quốc của tướng sĩ. Và rồi giao cho xuất nạp quang phổ lời “Hịch” xuống tận muôn dân. Chẳng hay ý quốc phụ thế nào?
( Xuất nạp quan: Một chức quan trọng yếu đời Trần, có nhiệm vụ đem mệnh lệnh của vua tuyên cáo cho dân chúng trong nước biết, rồi đem các ý nguyện của dân tâu lên triều đình. Nhờ chính sách này mà triều đình luôn gần dân.)
Hưng Đạo vương nghe thấu từng lời của nhà vua, quốc công có phần hơi xúc động, ông lại đưa tay lên ve vuốt chòm râu và đáp:
- Đội ơn bệ hạ, từ độ nhận tin Đỗ Vỹ báo về: Hốt-tất-liệt đã phong cho Thoát-hoan con trai y làm Trấn Nam vương. Và tên này đã khởi binh sang đánh Đại Việt từ hành tỉnh Kinh Hồ, lòng thần xiết bao căm giận. Lòng căm giận lũ chó lợn này dồn nén gần ba chục năm nay, bỗng bật trỗi dậy. Thần nghĩ, phải có cách nào thổi vào lòng tự tôn dân tộc bùng lên thành một bể lửa, thời mới có cơ may diệt được đội quân xâm lăng hùng hổ kia. Đào bới đến quặn lòng cũng chưa tìm ra được kế gì. Chợt lời “Lộ bố” của quan thái úy Lý Thường Kiệt phát ra khi đánh Tống, cứ vang bên tai thần. Quả nhiên như có hồn thiêng tiên tổ gọi về, thần thấy không có gì diệu lý hơn là: VIẾT HỊCH. Thế là thần ngồi vào viết một mạch từ giờ tuất đến giờ dần. Thần cảm thấy như có một đấng chí tôn nào đấy đang ngự ở trong đầu, và đọc cho thần chép. Thần có thể dâng bệ hạ bản chính với bản sao, không khác một lời. Kỳ thật!
( Tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch chủ trương đánh An Nam. Năm Ất mão (1075) ngầm tập trung 10 vạn quân tại các châu Khâm, Liêm, Ung thuộc tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Quân ta dò biết được việc này, Lý Nhân tôn bèn sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh sang đánh dẹp. Khi sang đất Tống, Lý Thường Kiệt cho phát lời “Lộ bố”. Tức bản cáo trạng kể tội Vương An Thạch dùng phép “Thanh miêu” (các kế hoạch cải cách) làm khổ dân Trung Quốc; lại có âm mưu xâm lược Đại Việt. Quân Việt sang chỉ có mục đích giúp dân Trung Quốc phá kế “Thanh miêu” chứ không có ý đồ xâm lược. Vì vậy rất được lòng dân Trung Quốc. )
- Kỳ thật! Vua Nhân tông nhắc lại. Nếu quả như quốc phụ nói: đây là lời tổ phụ tâm truyền, thời cả nước chỉ có một mình quốc phụ là người độc nhất xứng đáng được tin cậy, ủy thác. Thật là đại hồng phúc cho nước nhà. Vậy lời “Hịch” này phải được truyền thấu từ trăm quan đến thứ dân trong cả nước. Sức mạnh của lời “Hịch” sẽ nhân sức quân, sức dân ta thành sức mạnh thần thánh, kẻ thù không thể nào hiểu được.
Khuôn mặt nhà vua hân hoan bừng sáng như gương mặt trẻ thơ. Đức vua lạy từ hai đấng bề trên, rồi lui về cung Quan triều.
Vua Nhân tông đi rồi, Hưng Đạo vương tâu trình các việc cần kíp phải làm, trước khi quân giặc xâm phạm cõi bờ với thượng hoàng Trần Thánh tông. Hai đại nhân nói cười cởi mở ra vẻ tâm đắc lắm.
Giây lâu Hưng Đạo cáo từ thượng hoàng để còn liệu lo công việc. Hưng Đạo ra khỏi cung lâu rồi mà Trần Thánh tông vẫn chưa vợi nguôi xúc động. Thánh tông tự xét, từ các ý nghĩ đến việc làm như “Phú quốc cường binh sách” trước khi tâu về triều, ấp An Sinh đã tự làm, và thu được thành tựu đáng khích lệ. Dân tình hồ hởi. Cha, con, anh em có khi một nhà bốn năm người cùng xin tình nguyện xung quân. Quốc công có được một đội quân luyện tập dạn dầy và đông đúc, dũng mãnh nhất trong các vương hầu. Nay lại lao tâm khổ tứ viết được lời “hịch”, như moi móc từ tâm can óc não ra, hễ ai đã nghe một lần, dù là gỗ đá cũng phải nghiến răng, trợn mắt cầm lấy võ khí xông ra giết giặc, bảo vệ giang san nòi giống. Nếu không phải là người tận tâm báo quốc, thời không thể có được hành vi ấy. Tự đáy lòng mình, Thánh tông giũ bỏ mối hiềm nghi giữa hai ngành trưởng, thứ. Song có một điều làm nhà vua hơi áy náy, ấy là việc Hưng Đạo lúc nào cũng giữ gìn cặn kẽ quá, thủ lễ quá, khiến anh em cỏ vẻ kém chan hòa. Và nữa về tư chất, từ con người này toát ra vẻ uy nghi cùng tài đức của một bậc đế vương. Chỉ lo sau này... Thánh tông không dám đi đến cùng ý nghĩ. Bởi trong lúc này anh em trong nhà ngờ vực lẫn nhau, cũng tức là nuôi mầm tai họa. Thật tình, Thánh tông đã dứt tuyệt các phương sách đối phó, và ngăn chặn ngành trưởng bạo nghịch từ lâu. Vì rằng không tìm đâu ra, không nghe đâu được những hành vi, hoặc những lời nói có ẩn chứa mưu mô. Trần Hưng Đạo, tâm tưởng trong suốt như một khối băng. Ai đó hoài nghi vương, tức là người ấy mờ ám, Thánh tông nghĩ vậy. Nhưng khổ nỗi: đôi khi có một vài vẩn đục trong suy tư của ta, cũng có phần lỗi ở Hưng Đạo nữa. Vì rằng ân, uy, đức độ của vương, không chỉ giới hạn trong An Sinh ấp, mà nó tỏa khắp vương triều, tỏa khắp dân gian. Ngay như việc hạn điền, hạn nô trong hàng vương hầu, trong giới quí tộc do phủ Hưng Đạo khởi xướng, đã được quan gia ban thành quốc sách, khiến đám nông nô tri ân vô hạn. Song việc thi hành thật không dễ. Biết bao nhiêu các bậc cựu thần, cố lão, kể cả các bậc tôn trưởng, đều nhao nhao bài xích, nhà vua phải rắn tay lắm thời “Phú quốc cường binh sách” mới được thành tựu.
Mấy người trong hoàng tộc ỷ thế không chịu thả nô, sẻn điền liền bị kê biên gia sản, bị lưu đầy viễn châu, rồi mới nghiêm lệnh được. Nhờ quốc sách ấy mà chỉ trong vài năm nay, trong dân gian nhà nhà đã no đủ dồi dào, quốc khố dư dật. Thế dân, thế binh nổi lên như sóng cồn. Trong dân, trong quân người người đều sẵn lòng xả thân vì nước. Thế mới biết quốc công là người có nhãn quan xa rộng. Chính vương đã âm thầm trù liệu cho công cuộc chống trả quân Mông – Thát sắp diễn ra nay mai từ sau cuộc chiến năm Đinh ty. Có nghĩa là hai mươi bảy năm ròng rã, vương làm một việc mà chỉ người có cái chí của bậc thánh nhân mới làm nổi.
Trong khi vua Thánh tông cứ mải suy ngẫm về bản “ Hịch văn”, về “Phú quốc cường binh sách” thì Hưng Đạo vương tức tốc trở lại quân doanh, kiểm xét lại một lần nữa các công việc cho ngày đại duyệt, Quốc công không chỉ bàn bạc, huấn hỗ cho các viên thượng tướng, đại tướng, đô đốc, mà còn thân xuống tận các quân, các đô vừa thị sát vừa úy lạo sĩ tốt. Công việc xong xuôi thì đã quá giờ mùi. Quan hỏa đầu dâng bữa. Vương chỉ dùng qua loa, rồi lên ngựa phi tới thẳng phủ thái sư thượng tướng Trần Quang Khải.
Đúng lúc đám gia tướng của thái sư cũng dắt ngựa ra khỏi tàu. Anh em thi lễ xong, Quốc Tuấn bèn cáo thoái:
- Nếu ta không nhầm thì thượng tướng có việc sắp phải đi đâu đó? Để khi khác ta lại thăm vương tiện hơn.
Quang Khải cười lớn, giọng cười sảng khoái như người bộc bạch hết cả gan ruột.
- Quốc công quả có con mắt tinh đời. Đúng là em đang định đi kiểm xét lại quân doanh rồi ghé qua chỗ huynh trưởng, thỉnh huynh vòng lại hồ Thủy quân, xem thủy trại của các vương, hầu đồn đóng ra sao.
- Nếu vậy mời thượng tướng lên yên - Quốc Tuấn nói - Ta cũng có việc cần bàn riêng với thượng tướng.
Hai ngựa sóng đôi. Quốc Tuấn vẫn cưỡi con tía mật - một con ngựa Hồ to cao, sắc lông cháy lên như màu lửa. Đại vương thân hình lẫm liệt, đầu không đội mũ trụ mà quấn khăn vành dây, mình khoác áo thụng tía, ngang lưng thắt một dây lưng bằng da bện, thanh trường kiếm dắt cạnh sườn. Chân giận đôi hia đen, thêu chim phượng múa. Thượng tướng Trần Quang Khải người mảnh mai như một thư sinh. Vương cưỡi con hắc long màu đen tuyền. Sắc lông bóng mượt như nhung. Con ngựa Hồ này cũng cao to không kém con tía mật của Quốc Tuấn. Khu biệt giữa loài ngựa Hồ với ngựa ta không chỉ ở chỗ chúng có thân hình to, cao mà chúng còn có đôi mắt rất tinh tường. Ban đêm nhìn vào đôi mắt chúng như nhìn vào hai cục lửa rực sáng. Chính vì vậy mà chúng đi suốt đêm trong rừng sâu, cũng không khác đi giữa ban ngày trên những nẻo đường quang đãng. Chúng có thể đi suốt ngày đêm hàng trăm dặm, vừa đi vừa ăn cỏ hoặc thóc treo ở trước mõm; và liếm những giọt sương đọng trên các cành lá ven đường, thay cho nước uống. Thế nhưng chúng lại có thể tham chiến bất kể lúc nào. Khi lâm trận gặp núi cao, sông sâu ngay cả lửa cháy ngút ngàn, khí hăng bốc lên, chúng cũng lao vào không do dự. Cái khó đối với loài ngựa này là vừa kén ăn, lại vừa kén chủ. Nhất là đối với những con có quí tướng, mà rơi vào tay những kỵ sĩ nhút nhát, hoặc những vị ngu tướng, thì chúng không quật ngã trên bộ cũng dìm chết dưới sông.
Khác với Quốc Tuấn, Quang Khải vận áo bào thượng tướng. Hình hổ phù thêu trước ngực gắn đôi mắt ngọc lấp lánh hào quang như mắt thật, và những chiếc móng sắc dữ dằn. Thượng tướng đội mũ trụ dát vàng, lưng dắt thanh bảo kiếm chuôi ngọc nạm vàng, chân đạp đôi hia màu tím sẫm thêu chim phượng trắng. Thấy Quốc Tuấn trong sắc phục giản dị, Quang Khải có ý hơi ngượng. Nhưng tính Quang Khải vốn nghiêm cẩn; mỗi khi bước vào quân doanh, ông đều thay hết mũ áo thái sư bằng mũ áo thượng tướng.
Hai người, hai ngựa thong dong vào quân doanh của thượng tướng Trần Quang Khải. Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn liếc nhìn qua một lượt các trại quân, thấy hàng lối ra vào thuận tiện. Quân đi lại thưa thớt, mau lẹ có cảm nghĩ đây là các lều trại bỏ trống. Thế nhưng nó lại đang chứa đựng trên một vạn quân bộ, quân kỵ và lừa ngựa, lương thảo dã chiến. Phía sau các lều trại là các bãi tập láng dầy cát. Ở đây quân đang tập theo từng đô một. Chỉ nghe thấy tiếng kim khí va chạm, tiếng đấm, đá, tiếng chạy huỳnh huỵch, tiếng cung tên rít gió, và tiếng vó ngựa quần trên cát bịch bịch như tiếng chầy đập vải nơi hồ Giặt lụa.( Địa phận hồ Trúc Bạch ngày nay, xưa mang tên hồ Giặt lụa, vì các làng quanh hồ này làm nghề ươm tơ, dệt lụa và thường bắc cầu rửa ven hồ để giặt, đập tơ lụa ươm, ngâm.)
Trong khi Quang Khải hỏi han và cắt đặt công việc cho các tướng dưới quyền, thì Quốc Tuấn vẫn đi lại xem xét khu lều trại của sĩ tốt tập luyện. Ông rất hài lòng vì sĩ tốt đều khỏe mạnh, tập tành theo khuôn phép, kỷ cương, thuần thục, say mê. Quốc Tuấn thầm khen: “Quang Khải quả là một tướng văn, tướng võ kiêm thông, kiệt xuất”. Ông ước ao có vài chục viên thượng tướng, đại tướng như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão... thời công cuộc kình chống lũ giặc Mông - Thát kia bớt được bao nhiêu trắc trở, máu xương.
Công việc vừa xong, Quang Khải liền quay ra mời Quốc Tuấn về đình Tỵ Huyên ngay cạnh hồ Tịnh Tâm trước cửa cung Ngoạn Thiềm. Ở đó đã có sẵn một bình trà ủ nóng với đủ khay chén. Còn có cả một bàn cờ với quân ngà bày sẵn, như chỉ chờ hai vương tới đàm đạo và giải trí. Hai vương thả ngựa cho chúng tha thẩn trên các trảng cỏ quanh hồ, rồi cùng vào Tỵ Huyên đình. Quang Khải rót trà mời Quốc Tuấn. Xong hai tuần trà, Quốc Tuấn vào chuyện:
- Ta gặp thượng tướng không phải để bàn việc đại duyệt vào ngày kia.
- Dạ bẩm huynh trưởng, em cũng nghĩ thế - Quang Khải đáp và ông hỏi thêm - Bẩm huynh, chẳng hay kỳ này Thoát- hoan đánh ta bằng ngón đòn gì, huynh đã định liệu cách chống đỡ đến đâu rồi?
Quốc Tuấn trầm ngâm một lúc rồi ve vuốt chòm râu, đoạn ông đáp:
- Trong thế cờ cuồng vọng này, Thoát-hoan không chỉ có đấm tốt biên. Mà y dùng tất cả những gì hiện có hoặc có thể có trong tay: xe lệch, pháo lồng, tốt kẹp nách chờ nhập cung…
Vừa nói, Hưng Đạo vừa chọn trong đám quân ngà bầy ra ra một thế cờ như ông miêu tả. Đối mặt với thế lực hùng hậu này, phía bên kia chỉ có một xe một mã. Nhưng có lợi thế được đi trước. Đẩy bàn cờ nhích thêm một chút về phía Quang Khải, với vẻ thận trọng, ông nói:
- Mời thượng tướng! Giả tỉ như đây là thế trận, là thực lực giữa quân xâm lăng Mông - Thát với Đại Việt ta. Tôi xin chọn phía quân ít - Nói rồi Quốc Tuấn nhấc luôn quân xe chiếu vỗ mặt tướng bên kia.
Quang Khải xuất tướng, Quốc Tuấn lại chiếu bồi thêm nước mã quì. Hai vương bắt đầu vào cuộc tỉ thí từ khoảng nửa cuối giờ thân, đánh tới gần trót giờ dậu, cho tới khi trời tối đặc không còn trông thấy gì nữa, các vương vẫn cứ đánh tiếp. Lúc này không nhắc quân nữa mà đánh bằng lời. Khởi đầu, Quang Khải cho đây là cách Quốc Tuấn khai mào câu chuyện, ông đánh cầm chừng. Sau thấy Quốc Tuấn có vẻ toan tính nghiêm trọng lắm, khiến thượng tướng cũng phải dè chừng. Và ông nhập cuộc lúc nào không biết. Quốc Tuấn tuy có thay đổi nước chiếu, cách chiếu để lừa Quang Khải, nhưng không ngơi chiếu. Quang Khải phát bực lên vì quân đông, thế vững nhưng không tài nào giành nổi một nước để tiến công. Chỉ cần một nước thôi, là ông thắng. Cứ giằng dai như vậy sang giờ tuất, nhân lúc Quang Khải sơ hở, Quốc Tuấn đi nước chém tốt chiếu tướng.
Quang Khải ngừng đánh và hỏi:
- Bẩm huynh, nếu đánh tiếp thì huynh thắng hay đệ thắng?
Quốc Tuấn nói với giọng trầm trầm:
- Còn tùy theo cách đánh của vương đệ, nếu vương kiên nhẫn không mắc vào sơ hở nữa thì không thua, nhưng ta cũng khó thắng. Vì rằng ta mới chỉ tạo được thế, song lực của vương đệ còn vững lắm.
Một cái gì đấy vụt lóe ở trong đầu khiến Quang Khải rùng mình và bật thành câu hỏi:
- Bẩm huynh trưởng, có phải đây chính là chước thuật của huynh trưởng đem ra kình chống Thoát-hoan?
- Phải? - Quốc Tuấn đáp gọn lỏn.
Một chiến lược thoáng hiện ra rất mau trong óc não thượng tướng Trần Quang Khải nhờ thông qua một thế cờ mà vị quốc công tiết chế vừa trình bày với ông rất mực tế vi. Điều đó có nghĩa là thế quân của Thoát-hoan vô cùng hùng hậu. Khi tràn vào cõi ta, chúng chỉ mong tìm ra lực lượng chính yếu của quân ta để giao tranh, tiêu diệt, kết thúc thắng lợi chiến cuộc cho thật nhanh. Nói cho cùng thì không một đội quân xâm lược nào không có mong muốn đó. Còn về phía ta, binh lực so với quân Nguyên, yếu hơn nhiều. Cho nên phải tránh va chạm lớn. Phải nghi binh, phải che tai, bịt mắt quân thù, khiến chúng có muốn tiến binh cũng không thể tiến được, muốn đánh không biết đánh vào đâu. Quân xâm lược đi xa, biết bao khó khăn, càng ở lâu trên đất địch, lòng quân càng sinh biến. Với quốc công, bên ta chủ yếu là phải bảo toàn được lực lượng; nhằm sơ hở của địch mà đánh. Kẻ địch muốn đánh nhanh, ta đánh nhẩn nha; kẻ kia muốn đánh lớn ta đánh nhỏ. Khi đã buộc địch phải theo ý ta, thời trước sau chúng cũng thất bại. Thật là cao kiến. Đây chính là phương thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy quân ít thắng quân nhiều. Khi hiểu rõ Quốc Tuấn muốn tâm truyền bí thuật binh pháp của ông, Quang Khải thấy lòng mình se thắt lại. Đúng là bấy lâu ông chưa hiểu hết tấm lòng cao khiết của người anh thúc bá. Niềm xúc động chân thành dâng lên, khóe mắt ông tự nhiên ứa lệ. Trong đêm tối, Quốc Tuấn không nhận ra điều đó. Chợt Trần Quang Khải nói, giọng run run:
- Em xin bái phục huynh trưởng. Và ông sụp lạy - Quang Khải, một con người thông tuệ, dũng lược, chỉn chu chưa tỏ lộ một điều gì sơ xuất trong thuật trị nước, thuật bang giao và cả thuật cầm quân nữa. Hành vi này của ông đối với Quốc Tuấn, không phải là hành vi do lý trí chi phối, mà đó chính là tấm lòng của ông. Ông đã tâm phục.
Quốc Tuấn vội đỡ Quang Khải dậy, bằng giọng điềm đạm, ông nói:
- Vậy là vương đệ hiểu lòng ta, hiểu kế của ta. Đa tạ! Đa tạ ! - Từ nay, ta có thể coi em là người tri ngộ. Trước khi vào đại cuộc, vương đệ có điều gì quan ngại nữa không?
- Bẩm huynh trưởng, điều lo nhất của em được huynh trưởng gỡ bỏ qua một thế cờ.
Giây lâu Hưng Đạo lại nói:
- Chúng ta thân làm tướng nên có thể mẫn cảm được với thế trận, chớ như thượng hoàng, ta lo ngài vẫn còn e ngại cha con Hốt-tất-liệt lắm. Ngại là đúng. Chỉ có những kẻ mù lòa, mới không thấy hết sức mạnh đảo hải di sơn của đạo quân hùm sói, sắp tràn vào cõi ta nay mai. Song chúng không hoàn hảo tới mức khiến ta phải khoanh tay thúc thủ. Bởi thế, vương đệ nếu có cơ hội nên thưa lại với thượng hoàng cho cạn nhẽ. Chỉ khi nào ngài cùng quan gia đều vững dạ, thời chúng ta mới yên tâm vào trận được.
Điều Hưng Đạo băn khoăn, đã có lần ông nói với vua Nhân tông, để trong tình cha con thân cận, nhà vua bàn bạc với thượng hoàng tiện hơn. Nay, lại một lần nữa, ông bày tỏ với thượng tướng. Hóa ra một trong những điều Hưng Đạo quan hoài nhất, là làm sao cho những người giữ thế nhân chủ phải có lòng tự tin. Tin vào mình. Tin vào kẻ thuộc hạ dưới quyền. Tin vào thần dân. Nếu không, đất nước tới lúc gặp phải những khúc quanh nguy họa, sao họ đủ dũng lược lèo lái con thuyền quốc gia cập bến bờ đắc thắng.
Nghe Quốc Tuấn nói điều ông quan ngại, Quang Khải lấy làm hợp ý. Vì ông thường được nghe Thánh tông bày tỏ lòng thương dám dân vô tội, sẽ là mồi ngon cho lũ diều quạ Thoát- hoan, nếu như quân triều đình không cản được giặc từ ngoài biên ải. Thánh tông cũng thường kể về tính hung dữ hơn loài ác thú của cha con Thành-cát-tư-hãn, của quân Thát-đát cuồng khấu. Rằng khi Thành-cát-tư-hãn đánh chiếm các công quốc của người Nga-la-tư, bị họ chống cự mãnh liệt. Tiếp đến khi quân Thát-đát phá vỡ được thành trì, tiến thẳng vào kinh đô của họ. Chúng bắt gọn được cả triều đình từ vua đến các đại thần, các vương tôn, công tử khoảng hơn năm trăm người. Thành-cát-tư-hãn ra lệnh chôn họ vào lòng đất như chôn các hàng cột gỗ để nâng một bục sàn cực lớn. Trên đó, quân chiến thắng bày yến tiệc, ăn uống thỏa thuê, nhảy múa điên cuồng. Rồi chúng hất tung các tấm ván sàn đi, và chém rụng hết năm trăm chiếc đầu người ấy như phạt củ chuối... Kể lại những chuyện này hẳn trong lòng Thánh tông chưa yên lắm trong quyết sách đối với lũ giặc Mông - Thát...
Chợt nhớ điều Quốc Tuấn căn dặn, Quang Khải vội đáp :
- Bẩm huynh trưởng, chính em cũng nghĩ như huynh. Để em lựa lời - Rồi vương gạn hỏi:
- Bẩm huynh, từ nay tới khi Thoát-hoan vào tới cõi bờ ta, chắc còn nhiều việc quan yếu phải cấp kỳ khai triển. Em chỉ muốn hỏi, ngoài điều huynh vừa bày tỏ, còn có điều gì vương vấn khiến huynh phải bận tâm nữa không? Thật tình, Quang phải chỉ muốn Quốc Tuấn chuyên tâm lo việc lớn.
Đo đắn giây lâu, Hưng Đạo nói:
- Chẳng giấu gì vương đệ. Em hiểu ruột gan ta rồi đó. Nói rằng ta lo cũng được. Nhưng nói ta thiết tha mong muốn thì đúng hơn. Ta mong sao trong công cuộc kình chống giặc dữ cam go này mà vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục thời mới tạo dựng được cơ may thủ thắng.
Quang Khải không đáp. Ông nắm lấy bàn tay Quốc Tuấn. Người ông run lên vì xúc động. Đúng lúc một đội kỵ binh lướt tới, trong tay mỗi viên kỵ binh là một ống hồng sáng rực cả bờ hồ.
Hai vương đều biết họ đi tìm mình. Và hai con ngựa đang đứng chầu vào đình Tỵ Huyên tự lúc nào, các vương đều không để ý. Chia tay lên ngựa, Quang Khải còn nói theo:
- Mai sớm, em sẽ lại thăm chu sư của huynh trưởng.
Đêm ấy Quốc Tuấn ngủ ngon lắm. Bởi ông đã làm được một việc bấy lâu ông hằng canh cánh. Rằng các người trong ngành thứ, từ Thánh tông đến Quang Khải đều ngờ rằng ông sẽ thoán đoạt ngôi cao. Suốt mấy chục năm, ông giữ mình như giữ một đống rơm khô bên cạnh một lò lửa, sao cho lửa không bén vào rơm.
Bằng các việc làm nghiêm chính của mình với dân, với nước, biết liệu trước, lo sau, nhìn xa thấy rộng. Tới nay cha con, anh em Thánh tông đã hiểu rõ được lòng ông. Sở dĩ có sự hiểm nghi ấy, là bởi cha ông - Yên Sinh vương Trần Liễu, vì u uất trong các việc mà xưa kia Trần Thủ Độ bức bách. Tới khi hấp hối, ông cho gọi Quốc Tuấn vào cạnh giường, nắm lấy tay con mà trối trăng rằng: “Mày mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt”.
Việc trối trăng ấy sau vỡ lở, nên anh em trong hai ngành trưởng, thứ đâm hầm hè nghi kỵ, và trăm quan trong ngoài đều có ý nghe ngóng cả. Đứng đầu hai thế lực của hai ngành cả nước đều biết, chỉ có hai người: Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải.
Mấy năm gần đây triều đình nhà Nguyên rộng hành khinh thị Đại Việt quá đáng, họa xâm lăng xảy ra chỉ trong sớm tối. Quốc Tuấn một mặt lo cho binh mạnh, dân giàu, một mặt lo cho nội tình đất nước, nhất là trong gia tộc phải hòa thuận, bỏ hết mọi điều tị hiềm, dốc lòng vì nước. Ông đã làm mọi cách để gỡ bỏ mối lo đó. Nay tới Quang Khải nữa, là nút thắt buộc chính yếu cuối cùng, ông cũng vừa gỡ bỏ được. Vì thế mà lòng ông thư thái, tâm hồn trong lặng, và ông đã ngủ một giấc ngủ yên bình như một đứa trẻ ngủ trong nôi ấm.
Lúc tỉnh dậy thì trời đã mờ sáng, lâu lắm Hưng Đạo mới lại có được một giấc ngủ muộn như thế. Lòng sảng khoái, chân tay nhẹ bỗng, ông cảm thấy sức lực tràn trề, bèn sai đám thư nhi đem cho ông thanh đại đao ra phía sau nhà đại bái. Tấm thân to lớn với đôi tay rắn chắc, ông sử cây đại đao lanh lợi như người ta dùng chiếc que cời bếp mà múa may vậy. Các đường đao của ông khi tiến công thì như vũ bão; khi thủ thế thì uyển chuyển như hoa rơi tuyết rụng, bao kín toàn thân, tới mức có vốc cả một vốc sỏi ném vào ông, cũng bị thanh đại đao kia gạt ra hết. Hưng Đạo chưa so đao với ai nhưng ai cũng suy tôn ông là một tay đao, thương, quyền trượng vào bậc nhất Thăng Long.
Khi trở về nhà đại bái dùng trà xong, ông đi thẳng ra nơi đồn trú của chu sư.
Mặt trời lên cao chừng ba trượng, thượng tướng quân Trần Quang Khải thân dẫn một đội khinh thuyền, chiếc đi đầu cắm lá cờ hiệu có đề ba chữ “Chiêu Minh vương” thẳng tiến tới chu sư của Trần Hưng Đạo.
Hai vương làm lễ tương kiến xong thì trà nô của Hưng Đạo dâng trà. Đã vào tiết trung thu, nên Hưng Đạo sai pha trà kim cúc.
Sau đó, hai vương cùng đi xem xét nơi đồn trú các chiến thuyền trong đội thủy binh của Trần Hưng Đạo. Trước đông đảo tướng lĩnh và sĩ tốt, hai vương đứng áp sát vào nhau trò chuyện tươi cười, khiến ba quân cùng vui lây niềm vui của chủ tướng. Vòng hết một lượt, hai vương lại trở về nơi chu sư đồn đóng, mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, lúc này quân sĩ đang tập luyện.
Cứ từng đô quân một cởi trần, đóng khố, người nào cũng to khỏe, da đỏ săn pha màu chàm như một khối sắt nguội, bởi bụng, hai bắp đùi và sau lưng đều săm hình các loài thủy quái như thuồng luồng, giao long. Họ bơi trong nước, khiến ta có cảm giác đây là một loài thủy tộc hùng mạnh, kiểu như lính ngự lâm của hải long vương vậy.
Sinh ra và lớn lên trong các vùng sông, biển, lại luyện tập kỹ càng trên các địa bàn sông nước, đầm lầy, nên đám thủy quân này vượt sông với đủ thứ binh khí, lương thảo mà không cần cầu phao, không cần thuyền vẫn có thể tạo ra nhiều tình huống bất ngờ, khiến kẻ địch phải kinh hồn khiếp đảm. Nhìn họ tập, hai vương mỉm cười hài lòng.
Mặt trời càng lên cao, cái nắng mỗi lúc một thêm chói chang hơn. Hai vương vẫn đứng phơi người trước mũi thuyền, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán và trên cả hai bên thái dương.
- Vương đệ có tắm không?
Quang Khải lắc đầu:
- Chẳng giấu gì huynh trưởng, em thuở nhỏ hay quặt quẹo. Nhũ mẫu cứ tắm nước nóng mãi đâm quen, mất nết, nay không tắm được nước lạnh.
Quốc Tuấn ghé tai tên lính trạo nhi nói nhỏ: “Ngươi vào trong khoang nấu nước lá thơm để ta tắm cho thượng tướng”. Rồi ông quay lại nói với Quang Khải:
- Thượng tướng tắm sau, xin cáo lỗi, ta phải xuống hụp lặn với đám binh sĩ này.
Nói rồi ông cởi bỏ võ phục, và cũng chỉ một manh khố. Thân hình Trần Quốc Tuấn nở nang cân đối, các bắp thịt tay chân ông nổi cuộn lên thành múi, như đô vật lúc gồng người giữ thế. Thân thể ông không săm đặc như đám sĩ tốt, mà chỉ có mỗi hình hổ phù săm kín vùng ngực. Cái đầu hổ phù săm trên lồng ngực y hệt đầu hổ phù thêu trên áo. Chỉ khác là đằng này săm sâu vào da thịt với màu chàm sẫm, còn hình trên áo thì thêu nhiều màu sặc sỡ. Quốc Tuấn bơi nhanh, lướt đi nhẹ như một chú cá kình, đôi lúc hụp lặn lâu như một con giải.
Ngoi từ mặt nước lên, Quốc Tuấn leo phắt vào thuyền. Cũng vừa lúc tên lính trạo nhi ra bẩm: “Nước thơm đã nấu xong”. Ông liền vẫy tay cho đám lính khiêng thùng nước tắm vào khoang giữa. Rồi ông chạy lại kéo tay Quang Khải:
- Mời thượng tướng đi tắm.
Quang Khải không nề hà, ông trút bỏ bộ võ phục thượng tướng, rồi đi thẳng ra nơi có thùng nước thơm đang bốc khói. Mùi lá sả, lá hương nhu, lá bưởi lại pha thêm chút dầu hồi quen thuộc, khiến Quang Khải nhớ đến chậu nước mà nhũ mẫu thường tắm gội cho ông hồi nhỏ. Không cưỡng lại lời mời của Quốc Tuấn, bởi trong thâm tâm ông cũng tự thấy: đây không phải là cuộc tắm gội thông thường, mà chính là cuộc hóa giải mối hận cừu giữa hai dòng trưởng - thứ, do các bậc cha ông để lại. Quang Khải nói to giữa đám đông tướng sĩ tò mò nhìn anh em ông tắm táp cho nhau:
- Xin Quốc công tắm giùm thân cáu bẩn.
- Chẳng mấy khi được tắm cho thượng tướng - Hưng Đạo đáp lời Và ông kỳ cọ cho Quang Khải thật tỉ mỉ, từ đường sống lưng, hai cánh tay, bắp đùi và cả những chỗ kín của cơ thể thượng tướng. Cử chỉ ông vừa chăm bẵm, vừa thân tình, khiến đám tướng sĩ của hai phủ Quốc công và phủ Thái sư đều hết sức kinh ngạc.
Đúng lúc thuyền ngự đi thăm các thủy trại cũng vừa tới. Trần Nhân tôn khẽ kéo tay sử quan Lê Văn Hưu hỏi:
- Có phải mắt ta bị lóa nắng chăng, Lê sử quan nhìn kỹ giúp ta xem có đúng là Quốc công đang tắm cho Thượng tướng không?
Lê Văn Hưu căng mắt nhìn vào chiếc thuyền phía trước chỉ còn cách vài trượng, thấy không phải nhà vua lóa mắt, mà đó chính là sự thực. Ông đáp:
- Tâu thượng hoàng, đó là cảnh thực. Rồi ông mở luôn tráp lấy giấy bút, chép sự việc đúng như nó diễn ra mà ông được thấy vào quốc sử. Và ông nghĩ: Đây không chỉ là việc quốc công tắm cho thượng tướng hoặc Quốc Tuấn tắm cho Quang Khải, mà là sự tẩy rửa mối cừu hận, khôi phục tình thân nội tộc. Vượt lên tất cả là sự hóa giải cho những tướng lĩnh dưới quyền của hai phủ, và các vương hầu trong cả nước, thường quan hoài đến sự mắc mớ âm ỷ giữa hai phủ và hai ngành trong hoàng tộc, từ mấy chục năm nay. Đây không phải là cuộc tắm gội bình thường, mà là một nghĩa cử cao cả và đúng lúc, đúng thời của các bậc đại trí. Nghĩ vậy, nhưng Lê Văn Hưu không chép lời ông vào quốc sử. Bình sinh, ông không bao giờ chen lời bàn của riêng mình vào sử sách, bởi ông cho việc làm đó sẽ gây cho sự cảm thụ của đời sau, về các biến cố đương thời có thể rơi vào sự nhầm lẫn, khó bề minh định. Việc xuất hiện bất ngờ của nhà vua khiến hai vương hơi lúng túng. Nhưng Nhân tôn chỉ kính cẩn đáp lễ hai bậc bề trên, rồi sai ngư lâm quân chèo lâu thuyền đi thẳng.
Chứng kiến một sự việc mà trong lòng Nhân tôn bấy lâu mong đợi, khiến nhà vua tràn ngập niềm vui. Tự nhiên lồng ngực ngài ngự đập lên rộn rã, và trong huyết quản thấy râm ran, mặt nong nóng, làm nước da nhà vua hồng lên, đôi mắt rực sáng. Không ghìm được mềm xúc cảm, Nhân tôn nhìn thẳng vào gương mặt trầm tư của Lê Văn Hưu nói:
- Ta nói điều này không phải để ông chép vào quốc sử. Song thực quả, cử chỉ thân tình của quốc công và thượng tướng vừa rồi, khiến ta cảm nhận như chính mình được tắm gội từ trong đầu óc. Hành vi đó của hai vương làm ta thật sự tin tưởng vào công cuộc kình chống giặc Thát nay mai, ta thủ thắng.
- Tâu bệ hạ - Lê Văn Hưu đáp, cuộc đại duyệt ngày mai trong quân sẽ đồn ầm lên sự việc mà bệ hạ cùng hạ thần được chứng kiến hôm nay. Và điều đó, họ không thể lường hết được.
Cuối giờ dần ngày hai mươi tháng tám, các quân được lần lượt gọi vào diễu hành tại bãi sông bến Đông Bộ Đầu. Một đài cao dựng giữa khu đất rộng mênh mông, trên đó treo lá đại kỳ màu đỏ rực, có hai chữ Đại Việt màu vàng sẫm. Thấp hơn là lá cờ đuôi nheo có thêu hàng chữ “Quốc công tiết chế”. Trên đài cao, nơi hàng ghế đầu, có thượng hoàng Trần Thánh tông mặc áo hoàng bào, đầu đội mũ bình đính, tay cầm gậy trúc có khắc hình đầu hổ, và chạm hai con rồng leo quấn quýt quanh thân gậy vàng óng. Hàng ghế thứ hai, Trần Nhân tông mặc áo long cổn màu vàng, trước ngực thêu hình lưỡng long triều nhật, đầu đội mũ hoàng đế, tay cầm ngang thanh bảo kiếm vỏ bằng đồng đen nạm vàng, chuôi kiếm bằng gỗ mun cẩn ngọc minh châu là báu vật truyền quốc.
Đứng chầu ở hàng thứ ba có quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn uy nghi trong bộ võ phục màu tía, đai vàng thêu chim phượng; ngực áo thêu hình hổ phù. Bữa nay Hưng Đạo đeo giáp hộ tâm, nên ngực ông càng đẫy đà; đầu đội kim khôi, ngang sườn dắt thanh trường kiếm, nom ông uy nghi lẫm liệt như một vị thiên tướng. Cạnh Quốc Tuấn là quan tướng quốc thái úy Trần Quang Khải, ông đội mũ thái sư, mặc áo thụng tía thắt đai ngọc, tay cầm chiếc hốt vàng.
Tới giờ đại duyệt, ba phát pháo hiệu nổ vang, quốc thiều tấu lên hùng tráng. Dứt âm nhạc là tiếng loa gọi quân tiến vào trong bãi. Loa thét:
- Thân quân! ( Quân bảo vệ kinh thành do viên điện tiền chỉ huy sứ cai quản)
Lập tức viên điện tiền chỉ huy sứ dẫn các đạo Thiên thuộc, Thiên cương, Chương thánh, Củng thần, Thần sách rồi đến Thánh dực đô, Thần dực đô, Long dực đô, Hổ dực đô... vào quân trường.
Đạo thân quân diễu qua kỳ đài nơi có hai vua, quốc công và thái sư rồi vòng về xếp thành hàng tề chỉnh theo nơi chốn qui định trước.
Loa lại thét :
- Du quân! ( Quân của triều đình đi đóng ở các lộ).
Viên tướng thân dẫn quân vào. Đi đầu là Thiết lâm đô rồi đến Thiết hạm đô, Vũ ân đô, Hùng hồ đô...
Quân triều đình đã vào hết, loa lại thét:
- Vương hầu quân!( Quân của các vương hầu trong điền trang thái ấp).
Đây là đạo quân đông đảo nhất của các vương hầu đều lần lượt tiến vào. Mở đầu là quân của phủ Tá Thánh vương Trần Đức Việp, rồi đến quân của phủ Chiêu Minh vương Thượng tướng Trần Quang Khải. Tiếp đến là quân của phủ Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc; Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Lại đến quân của phủ Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang; Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn; Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn; Hưng Trí vương Trần Quốc Hiến; Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uất; Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Tiếp đến Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung; phó đô tướng quân Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư; Chương Hiến hầu Trần Kiện; Văn Chiêu hầu Trần Lộng; Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản; Vũ Đạo hầu; Văn Nghĩa hầu; Minh Thành hầu; Minh Trí hầu; Nghĩa Quốc hầu... Tất cả đều lần lượt đưa quân vào đại duyệt. Quân của các vương hầu, gia đồng ở các thôn ấp, thường được phiên chế thành ba đạo: Dược đồng đô, Toàn hầu đô, Sơn lão đô.
Các tướng như Trần ích Tắc, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Đạo Tái, Nguyễn Khoái... đều đứng lẫn vào trong quân của mình.
Cuối cùng là các đoàn đội trạo nhi (Gồm quân sĩ khiêng kiệu, chèo thuyền, chạy trạm thông báo tin tức, gánh cung tên)lần lượt đi vào trong quân của mình ở quân trường.
Khi đại quân đã tề tựu đông đủ rồi, vua Nhân tôn tiến chếch về bên tả bảy bước, Trần Quốc Tuấn tiến sang bên hữu năm bước, đứng chếch và thấp hơn nhà vua.
Vua truyền:
- “Quốc gia đang cơn nguy biến, giặc Mông - Thát dọa nạt xâm lăng. Nạn binh hỏa chỉ là trong sớm tối. Xét tài thao lược của Hưng Đạo vương tướng quân, năm ngoái trẫm đã phong chức:”Quốc công tiết chê thống lĩnh chư quân sự”. Nay trẫm ban thêm cho quốc công lá cờ tiết và thanh bảo kiếm truyền quốc này, để quốc công thay trẫm điều hành việc quân cơ chống giặc trong cả nước. Ai trái lệnh, quốc công được quyền chém trước tâu sau”..
Vừa dứt lời, vua Nhân tôn bèn trao lá cờ đuôi nheo màu đỏ, tua vàng, góc trên cùng thêu ráng mây năm sắc và quốc ấn màu vàng.
Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn bèn quỳ xuống giơ hai tay đỡ lấy cờ, kiếm vua ban.
Vua Nhân tôn vội đỡ quốc công tiết chế đứng dậy, và nói vài lời úy lạo trước toàn quân về bản “Dụ chư tì tướng hịch văn”. Đoạn nhà vua sai quan hàn lâm thị độc tuyên đọc.
Quan hàn lâm hấp tấp leo lên đài cao và đọc. Cũng như lúc nhà vua tuyên dụ, có một hạ quan nhắc lại lời đọc thông qua chiếc loa đồng do hai lính thị vệ nâng vừa tầm miệng. Lại có tám chiếc loa đồng nữa đặt ở bốn phương chính đông, chính tây, chính nam, chính bắc và ở bốn góc; chọn tám người có giọng đọc tốt và có sức truyền cảm đồng thời nhắc lại từng lời quan hàn lâm vừa xướng.
Tiếng hịch phát vang như tiếng chuông đồng dóng dả. Lời hịch như lời sấm truyền, thức tỉnh tận sâu thẳm lương tri từng người, khích lệ họ phải biết tôn quý và giữ gìn mảnh giang sơn gấm vóc do tổ tiên tạo dựng, và truyền lại cho đời đời con cháu. Hàng chục vạn quân, muôn người như một, đều yên lặng lắng nghe. Sau mỗi giây, tiếng loa dừng, không khí im phăng phắc, mãi cuối hàng quân người ta còn nghe được cả tiếng lật giấy của quan hàn lâm thị độc, và tiếng ậm è lấy giọng của ông.
Thượng hoàng Trần Thánh tông lấy làm đẹp ý, vì thế quân đã nổi. Các loại binh khí như ngài đòi hỏi quan công bộ Nguyễn Hiền tại đại hội Bình Than, như song sảo pháo, ngũ sảo pháo, nỏ liên châu... thảy đều đã thấy có trong quân. Sĩ tốt đều khỏe mạnh, binh khí sắc nhọn, đầy đủ. Các lộ, trấn, các vương hầu, thái ấp không một nơi nào chậm trễ và thiếu vắng trong cuộc hội quân này. Đủ tỏ lệnh của triều đình đã thấm nhuần cả trong quân, trong dân; đủ tỏ tài nghệ điều khiển ba quân của quốc công tiết chế là mẫn nhuệ, thao lược.
Tiếng loa vẫn vang vang, lời lời thống thiết:
“Ta từng đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt giàn giụa, lòng dạ như dần, vẫn căm giận muốn ăn thịt nằm da, nhai gan uống máu quân giặc. Dẫu trăm thân ta phơi ở đồng nội, dẫu nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm...”.
Cả rừng quân vẫn im phăng phắc như nuốt lấy từng lời hịch. Quốc Tuấn và Quang Khải đều lướt nhìn các gương mặt binh sĩ đang chăm chú hướng về kỳ đài, hướng về những chiếc loa đồng sáng bóng. Gương mặt họ vừa cháy lên niềm kiêu hãnh, vừa phảng phất nét u buồn pha phần căm giận, và chợt những giọt nước trong trẻo như nước suối Cam Lộ đang nhểu ra, và lăn trên hầu hết các gương mặt dầu dãi gió sương kia.
Các vị trụ cột của vương triều đều cảm nhận thấy binh sĩ đã biết lo cái lo của bậc tôn trưởng, và ngầm yên tâm rằng thế quân đã nổi.
Cuộc đại duyệt toàn quân này đã làm nao nức lòng dân, lòng quân từ mấy tháng nay. An Tư công chúa cũng nao nao mong đợi. Nàng băn khoăn không biết các đồ đan lát thêu thùa của cung An Tư sẽ biếu tặng cho ai. An Tư nghĩ, nếu Chiêu Thành vương của nàng không trực tiếp cầm quân, thì nàng sẽ tặng các thứ quân dụng kia cho đội tinh binh của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. Hoài Văn hầu vừa là cháu ruột Chiêu Thành vương, vừa là gã thiếu niên có chí khí anh hào, từng nổi tiếng từ Đại hội Bình Than, mà khắp vương triều không ai không mến mộ. May thay, giữa lúc nàng đang phân tâm thì nghe có lệnh quốc công gọi chàng về, và giao cho trọng trách đứng đầu thánh dực đô. Có nghĩa rằng chàng được quốc công tin cậy giao cho việc điều hành đạo quân bảo vệ hai vua. Cơ may đã đến, nàng đem hầu hết số giỏ đựng tên và khăn thêu tặng cho đạo quân của chàng. Hôm nay, nàng không được vào trong kỳ đài, nhưng ngồi trên kiệu ở mép quân trường, nàng nom rõ Chiêu Thành vương của nàng oai phong trong bộ võ phục, và cưỡi trên lưng con “Hắc long” đi cạnh hàng quân, sao chàng kiêu dũng thế, đáng yêu thế. Lại chiếc khăn nàng thêu tặng chàng với cả bài thơ, chàng buộc vào đốc kiếm kia, phải chăng chàng tỏ lòng kiêu hãnh với mọi người, hay ngầm báo: lòng chàng yêu quí ta. Nàng cũng đã bày tỏ và được chàng cho phép, số giỏ đựng tên còn lại với tất cả số áo ấm, chăn mền, nàng sẽ tặng cho đạo quân của Trần Quốc Toản. Chỉ sau ngày đại duyệt này, nàng sẽ thân đến thăm Hoài Văn hầu và trao biếu các tặng phẩm của cung An Tư. Ngồi trong chiếc kiệu sơn màu anh vũ có chạm những con chim phượng sơn màu trắng, buông rèm the, công chúa An Tư còn nhìn thấy cả Trần Đạo Tái và chàng trai người Man nàng đã gặp trong vùng sơn trại trên Tản Viên. Nàng cũng nhìn thấy cả mấy tên trong sứ đoàn nhà Nguyên cưỡi ngựa đi nhớn nhác quanh quân trường. Mấy đứa mặt mày có vẻ ngơ ngác, như là một sự lạ về đạo quân đông đúc và dũng mãnh này của Đại Việt. Dường như lũ này không còn tin vào mắt chúng nữa. An Tư thầm nghĩ: “Tại sao quốc công không sai người ngăn lũ chó này lại, cho nó đỡ đánh hơi tìm mồi”. Nàng lại nghĩ: “Hay quốc công muốn qua miệng lũ dòi bọ này tâu về cho cha con Hốt-tất-liệt. Rằng Đại Việt đang sửa soạn binh khí, lương thảo để “đón” quân Mông - Thát, như lời Hốt-tất- liệt vẫn hỗn hào đe dọa?”.
Đang mải mê theo đuổi hình bóng Chiêu Thành vương và thả hồn phiêu diêu suy tưởng, thì lời hịch tới hồi thống thiết, khiến mạch suy nghĩ của An Tư chợt dừng.
“Giặc Mông-Thát là kẻ thù không đội trời chung, bọn các ngươi cứ điềm nhiên không nghĩ rửa nhục, không lo trừ hung, mà lại không dạy quân lính, thế là trở giáo đầu hàng, tay không chờ giặc, để cho sau khi dẹp loạn, muôn đời để nhơ, còn mặt mũi nào mà đứng trong cõi trời che đất chở nữa? Cho nên ta muốn các ngươi biết rõ lòng ta, mới viết ra bài hịch này”.
Lòng nhi nữ bị lời hịch hút cuốn, nàng cảm nhận như huyết quản mình sục sôi, và muốn cầm lấy một thứ binh khí mà ùa xông vào với đoàn quân kia ra chiến trường, dù da ngựa có bọc thây cũng không hề nản.
Bỗng đâu đó trong quân có tiếng hô “Sát Thát!”. Thế là đoàn quân hàng chục vạn người kia hô theo: “Sát Thát !”, “Sát Thát !”. Và tất cả dân chúng kinh thành đứng vây quanh quân trường đều hòa giọng hô: “Sát Thát !”.
Tiếng “Sát Thát !” thét vang trời. Dường như cả Thăng Long: Sát Thát ! Sát Thát ! S…át Th..át!... Dường như cả Thăng Long nổi giận !!

CHƯƠNG 19 :

Sau ngày hội quân với ngụ ý biểu giương lực lượng, thống nhất ý chí bảo vệ bờ cõi, gương mặt phố phường Thăng Long dường như đổi khác. Theo lệnh quan đại an phủ sứ của kinh sư, các viên câu đương cùng các bậc trưởng nghề ở các phường đã hội họp toàn dân trong phường để bàn việc giúp quân đánh giặc. Mở đầu là phường Lò Rèn, nhận đem tất cả số sắt có trong các lò bễ của mỗi nhà, rèn đúc thành khí giới để cấp cho dân binh trong phường; số còn dư hiến cho các vệ quân bảo hộ kinh thành. Ngoài ra, phường Lò Rèn còn nhận đúc binh khí giúp các phường khác, không lấy công...
Phường Hàng Buồm, các nhà góp vải may một trăm lá buồm, cung hiến cho quân thủy. Và nhận may buồm không lấy công cho bất cứ vệ nào, quân nào cần may. Phường Hàng Vải, mỗi nhà đều hiến vải để may đủ mười chiếc áo ấm cho binh sĩ. Nhiều nhà giàu có, còn may đủ áo ấm cho cả một quân.
Phường Hàng Chĩnh, các nhà gom hết số chum to vại lớn để chia cho các phường tích chứa lương khô, phòng khi quân sĩ vãng lai dùng đến. Lại số gạo sấy khô của quốc khố gửi trong nhà dân từ ba bốn năm nay, dân cũng xin được đổi hạt kẻo để lâu ngày không còn dùng được nữa. Đại khái những việc giúp quân hoặc lập ra các đội dân binh, dân phòng, ngừa khi giặc đến là có thể ứng phó được ngay, dân kinh thành đều nhất đán làm trước các lộ, các trấn trong toàn cõi.
Lại nói về sĩ tốt, sau khi nghe xong lời “Hịch”, tinh thần trong quân đội như một bể dầu sôi, ai nấy đều sẵn sàng sả thân vì nước. Lòng căm giận quân giặc dữ phát khởi, khiến nhiều đám lính tụ tập nhau thích hẳn hai chữ “Sát Thát” lên cánh tay mình. Trước còn lác đác, nhưng chỉ vài ngày sau, sĩ tốt trong quân hầu như không một người nào lại không có chữ “Sát Thát” màu chàm bên cánh tay mặt. Ấy là người lính tự biểu hiện lòng tức giận của mình đối với quân Mông-Thát. Ấy là người lính tự bày tỏ lòng trung với nước. Việc thích chữ thật không dễ. Vì trong quân ít người biết chữ. May ra trong một đô, chỉ có viên đô trưởng biết ít chữ nghĩa. Do vậy, quân lính phải xếp hàng chờ đến lượt được viết hai chữ bằng mực tầu lên cánh tay. Đợi cho mực khô họ mới săm lẫn cho nhau. Cánh tay người lính nào cũng rỉ máu. Và họ kiếm tìm các lá có chất nhựa chàm, xát đi xát lại trên da cho nhựa thấm đẫm các lỗ kim châm trong da thịt.
Đường phố lính tráng đi lại nhộn nhịp, họ đổ về các chợ Cầu Đông, phường Hà Khẩu để mua kim. Hoặc kéo nhau vào các dải rừng ven hồ Dâm Đàm để kiếm tìm các loại lá chàm.
Cũng sau ngày hội quân, quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã điều binh và cắt cử các tướng trấn giữ những miền trọng yếu trong nước. Nhất là vùng Lạng Châu, binh lực được tăng thêm dọc các đồn ải cho tới Chi Lăng. Điện tiền Phạm Ngũ Lão và một số tướng như Hưng Vũ vương, Hưng Trí vương, Hưng Hiếu vương, Hưng Nhượng vương, phó đô tướng quân Trần Khánh Dư cùng nhiều tướng khác được điều lên trấn suốt một dải dài biên thùy phía bắc và vùng biển đông. Quản quân Nguyễn Lộc là một thổ hào có thế lực cũng được Hưng Đạo sai trấn ở châu Thất Nguyên ( Vùng đất thuộc huyện Tràng Định Lạng Sơn ngày nay).
Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật trấn giữ lộ Đà Giang. Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc cùng Văn Chiêu hầu Trần Lộng chẹn giữ vùng Tam Đái là cửa ngõ phía tây bắc của kinh thành Thăng Long. Thượng tướng thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, lưu trấn tại kinh sư, có Chiêu Thành vương và tiểu tướng quân Trần Quốc Toản phụ trấn.
Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang cùng một số tướng khác như Trần Đạo Tái, Trần Kiện đặc trấn mặt nam, ngăn giữ không cho quân của Toa-đô đóng ở vùng Ô Lý, Việt Lý, Chiêm Thành đánh tràn qua vùng đất Nghệ An.
Các tướng Trần Bình Trọng, Nguyễn Khoái cùng quân thủy, chẹn các mặt sông bao quanh kinh thành. Vùng Bình Than - Vạn Kiếp sẽ là nơi ác chiến với quân Mông - Thát, cũng được quốc công điều quân các lộ khác về hợp trấn. Đại bản doanh của Trần Hưng Đạo đóng ở ải Nội Bàng( Vùng đất thuộc huyện Lục Ngạn Bắc Giang) để ngăn giặc và tiện việc chỉ huy, điều động toàn quân.
Lại nói về việc truyền “Hịch”. Sau ngày đại duyệt toàn quân, các xuất nạp quan của triều đình đã về tận các trấn, lộ kể cả các đạo xa xôi trên biên thùy phía bắc để khẩu truyền. Các trấn, lộ, đạo lại truyền về các châu, quận. Các châu, quận truyền về đến xã, thôn, ấp. Suốt ngày đêm, tiếng “Hịch” truyền rộn ràng trong khắp cõi. Từ kinh thành đông đúc tới thôn cùng xóm vắng, cả các vạn chài heo hút trong các đầm rạch cho tới các dân tận rừng sâu núi thẳm, không ở đâu người dân không được nghe tiếng “Hịch” truyền.
Lời “Hịch” như lời nguyền sắt đá của muôn dân, thề cứu mảnh giang san gấm vóc, do tổ tiên để lại cho cháu con Lạc- Hồng. Lời “Hịch” không bay theo gió mà đọng lại trong máu thịt, trong tim óc từng người. Lời “Hịch” hùng tráng thiết tha như hồn thiêng sông núi từ ngàn xưa gọi về, khích lệ lòng người với tinh thần tự trọng cao vời: “NINH THỌ TỬ, BẤT NINH THỌ NHỤC” ( Thà chết chứ không chịu nhục).
Thường ngày trong các làng bản, người già có chữ nghĩa lại đọc rồi giảng giải các điều sâu kín trong “Hịch văn” cho cháu, con nghe hiểu. Lời “Hịch” cứ được nhắc đi nhắc lại mãi như thế trong quân, trong dân, khiến không một ai có thể nguôi quên lòng trung với nước, mà vơi vợi nỗi oán hờn quân Mông - Thát.
Chia quân chẹn giữ các ngả thủy, bộ xong, hai vua Trần Thánh tôn, Trần Nhân tôn thường lui tới úy lạo quân dân trong nước. Nhất là vua Nhân tôn, sức trai tráng, lòng đầy nhiệt huyết, ngài muốn đích thân dò tìm sự nghĩ hiểu của người dân, người lính như thế nào với cuộc đối đầu lịch sử sắp diễn ra giữa quân dân Đại Việt cùng quân Mông - Thát xâm lăng. Khi thì ngài xúc tiếp với các người dân tận nơi sâu vắng, hoặc với đám quân thú chốn biên thùy. Khi thì với cương vị một hoàng đế, khi thì giả trang vi hành lẫn vào trong dân, trong quân nghe ngóng hoặc luận bàn. Hết thảy những điều Nhân tôn nghe được đều làm nhà vua hài lòng, bởi không có một người dân nào lại tỏ ra run sợ trước sức mạnh của quân thù. Vậy là triều đình đã cố kết được lòng dân. Việc còn lại chỉ là đánh giặc, giữ nước. Nhưng đánh thế nào để vừa thủ thắng, vừa không thiệt hại nhiều lắm tới máu xương binh sĩ, ngăn sao không cho giặc tàn sát đám lê dân. Càng căm giận quân giặc dữ bao nhiêu, nhà vua lại thương đám dân chúng và sĩ tốt bấy nhiêu.
Trong khi Nhân tôn bận mải đốc thúc việc quân, việc lương, thì Thánh tôn lại chuyên lo việc bang giao với nhà Nguyên. Phương sách của ngài là còn nước còn tát. Tức là nếu không ngăn được cuộc chiến, thì cùng gắng làm cho nó chậm nổ ra ngày nào hay ngày ấy. Tranh chiến là một hạ sách, là một chọn lựa cực kỳ bất đắc dĩ. Trong thâm tâm thượng hoàng Thánh tông vẫn nghĩ Hốt-tất-liệt lòng tham không đáy, kiêu mạn không cùng. Y vẫn thường nói với sứ thần các nước đến đại đô Yên Kinh rằng: “ Ngọn cờ của thiên tử nhà Đại Nguyên trỏ về phương nào thì phương ấy phải thành tro bụi...”. Cho nên, Hất-tất-liệt không thể chấp nhận dưới cõi trời này, lại có một tiểu quốc như Đại Việt dám chống lại sự nội thuộc. Các sứ thần nước ta tới Yên Kinh thường bị Hốt-tất-hệt đập án thét mắng: “Ý ta là ý trời! Chống lại ta là chống lại trời! Ta sẽ cử đại binh bắt cha con Nhật Huyên về bêu đầu trước cửa khuyết. Ta sẽ làm cỏ nước Nam để nêu gương cho những kẻ nào, những nước nào dưới gầm trời này dám trái ý ta. Ta sẽ...”
Thánh tông lại nghĩ: chắc rằng sứ ta trở về không dám nói hết các lời Hốt-tất-liệt lăng mạ vua tôi Đại Việt. Cứ suy ra thì biết, sứ giặc ở Thăng Long còn dám hỗn hào đến nỗi vào bệ kiến ta, chúng còn không cả cúi chào. Xông xáo trong nội điện, nói năng xấc xược, khạc nhổ thô bỉ như ở chỗ không người. Chúng hạch sách đủ điều, đòi hỏi đủ thứ quý hiếm khó tìm, khó mua như vuốt hổ, sừng tê, ngà voi, nọc rắn, mật chuột… Ra đường gặp dân ta, chúng nạt nộ đánh mắng, gây án mạng là thường. Ta đã nhiều phen khuyến dụ dân chúng nhún nhường, hoặc lánh xa bọn chúng. Đại khái những chuyện như thế đám sứ giặc nhãi nhép còn dám làm, huống hồ vua nó mãi tận Yên Kinh thì tiếc gì lời lẽ mạt sát ta, mạ lị ta.
Ấy vậy mà ta vẫn cứ nhịn nhục chống đỡ bằng các biểu chương với lời lẽ kính cẩn ôn hòa, bằng các đồ sang quý tiến cống Hốt-tất-liệt và đút lót cho bọn sứ thần nhà Nguyên.
Ta biết Hốt-tất-liệt đã cử binh sang xâm lấn, nhưng ta vẫn cố nhún cầu hòa. Tháng bảy vừa rồi ta sai thiện trung đại phu Trần Khiêm Phủ sang hành tỉnh Kinh Hồ xin Thoát- hoan hoãn binh. Đầu tháng tám, ta lại sai Đoàn Án, Lê Qúy sang Yên Kinh trần tình với Hốt-tất-liệt xin bãi binh. Cuối tháng tám, ta tiếp sai Nguyễn Đạo Học sang Nguyên không ngoài mục đích cầu hòa. Tất cả đểu chưa có hồi âm. Lòng ta nóng sôi như lửa đốt. Ta biết, sự thể rồi sẽ tan hỏng. Vì rằng ta thì không thể nhịn nhục hơn nữa, mà kẻ kia lại quyết không nhường một ly. Tranh chiến là điều ta không muốn? Ta không muốn nhưng không có một chọn lựa nào khác hơn. Bởi chưng cha con Hốt-tất-hệt buộc Đại Việt ta phải cầm binh khí.
Thánh tông tự thấy bụng nóng khác thường, như báo trước một điềm gì quan yếu lắm. Nhà vua bèn xốc áo bước ra hành lang, mắt đăm đắm nhìn về phía vườn thượng uyển. Chợt một cơn gió tạt qua khiến nhà vua thấy se se lạnh. Biết là tiết trọng đông đã tới. Thánh tông vừa toan trở lại cung, thì một viên quan nội hầu đã hấp tấp bê chiếc áo hồ cừu ra dâng vua. Thượng hoàng định di dạo về phía vườn ngự uyển cho đầu óc thông thoáng; chợt nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếp đó là Chiêu Thành vương với đội quân thánh dực xuất hiện. Đám quân tản ra, còn Chiêu Thành vương tiến lại rập đầu lạy. Thượng hoàng vừa nâng Chiêu Thành vương dậy thì Trần Nhân tông và Nguyễn Đạo Học tiến vào cúi lạy. Thánh tông phảy tay miễn lễ. Lòng mừng khôn xiết, ngài nắm bả vai Nguyễn Đạo Học mà lắc, và nói:
- Ta mong khanh quá. Ta lo cho tính mệnh của khanh vô cùng. Thôi thì cũng vì nước cả.
Rồi săm săm, thượng hoàng đi trước về cung Thánh từ.
Mọi người vừa yên vị xong, Thánh tông liền hỏi:
- Nào, Đạo Học kể ta nghe việc khanh sang sứ nhà Nguyên ra sao? Nhìn vua Nhân tông và Chiêu Thành vương, Thánh tông lại hỏi:
- Quan gia cùng Chiêu tướng quân gặp Đạo Học ở đâu?
Chiêu Thành vương liếc nhìn Trần Nhân tông như ngầm xin lệnh chỉ. Vua Nhân tông phục lạy và tâu:
- Bẩm phụ vương, đức quốc công tiết chế mật báo cho con rằng sứ thần Nguyễn Đạo Học đã được Thoát-hoan cho về nước, cùng với hai tướng người Mông Cổ đem thư của y sang dụ ta. Được tin, con vội cải trang đi cùng tướng quân Chiêu Thành vương lên đón sứ nhà, và cũng là để xem xét việc bố phòng quân cơ trên mạn bắc. Hai tướng Mông Cổ đã có người tiếp rước, chắc nay mai cũng về tới đây thôi.
Nghe con nói xong, Thánh tông hơi nhíu đôi hàng mi đã có mấy sợi bạc xám, dài rủ cong xuống mắt. Thượng hoàng dằn lòng nói với vẻ như an ủi, vẻ như trách móc:
- Thế nước đang nghìn cân treo sợi tóc, cuộc tranh chiến sẽ nổ ra trong sớm tối. Sao quan gia khinh xuất thế. Phải bảo trọng tấm thân muôn quý để dùng cho nước.
Nhân tông cúi đầu tựa như người biết hối lỗi, nhà vua nói khẽ:
- Bẩm, con xin lĩnh ý phụ vương.
- Khanh, nói đi. Thánh tông vừa nói vừa chỉ vào Nguyễn Đạo Học.
- Muôn tâu thượng hoàng, hạ thần đi đến địa giới tỉnh Hồ Nam ít lâu thì gặp tiền quân của Thoát-hoan. Chúng giữ lại và dẫn ngược đường về ra mắt Thoát-hoan mất đúng năm ngày ngựa. Thần bèn dâng thư của hoàng thượng cùng các đồ tiến lễ. Mặt y hằm hằm tức tối, hẩy đổ án thư, quát mắng thần không tiếc lời. Y còn thóa mạ cả vương triều ta rồi đe lôi thần ra chém. Bộ tướng của y là Quy-lê( Kulá) và Ta-khai Xa-ric (Tagai-sariq) bước ra can. Y dọa cả hai cận thần kia và cử chúng đem thư sang dụ Đại Việt. Dạ muôn tâu, cứ theo ngu ý của thần thì bọn Thoát-hoan dùng quỷ kế đấy thôi ạ.
Vua Thánh tông và cả Nhân tông cùng gật gật đầu, vẻ như chấp thuận lời bàn của Nguyễn Đạo Học.
- Thư của Thoát-hoan đâu? - Thánh tông hỏi.
- Muôn tâu, Nguyễn Đạo Học đáp - Thư do hai viên tướng giặc là Quy-lê và Ta-khai Xa-ric cầm. Quan gia sai cho chúng đi cáng, để che tai bịt mắt, lại cũng để cho hành trình chậm lại, chắc rồi ngày một ngày hai sẽ đến Thăng Long. Chúng phải đích thân dâng thư Thoát-hoan lên thượng hoàng cùng các lời nhắn bảo của y.
Hai hôm sau, sứ của Thoát-hoan dâng thư. Trong thư, Thoát-hoan cao giọng răn đe hết sức hỗn hào. Và y buộc triều đình Đại Việt phải: “Chở lương thực đến Chiêm Thành tiếp tế cho quân Toa-đô. Quốc chủ phải đón Trấn Nam vương tại địa đầu biên ải. Mở đường cho quân ta mượn qua đánh Chiêm Thành... “.
Mặc dù kẻ kia kiêu hỗn, Thánh tông vẫn một mực mềm mỏng, sai tiếp sứ thật ưu hậu. Thôi thì các món nem công chả phượng không thiếu một thứ gì ngon, quý mà không đưa ra thết sứ. Lại vàng bạc châu báu, lại đồ biếu tặng riêng, nhiều khôn kể xiết. Hai quan chánh phó sứ nhà Nguyên tối mắt lại trước đống vàng bạc ngọc ngà được biếu tặng, mà quên phắt việc dò tìm manh mối, chắp nối tin tức xem binh lực của Đại Việt mạnh yếu thế nào, cùng các nơi hiểm yếu đã bố phòng ra sao, thảy đều sao nhãng. Chúng chỉ cốt hưởng trọn các cuộc truy hoan, nào rượu ngon, nhắm tốt, gái đẹp, hát hay, múa giỏi...
Lưu giữ sứ giả tại Thăng Long chừng non nửa tháng thì bọn Quy-lê nhất quyết đòi vua nhà Trần phải có thư phúc đáp Trấn Nam vương Thoát-hoan, và phải chấp nhận các việc như nộp lương, mượn đường...
Trần Thánh tông một mặt an ủi sứ giặc rằng, các việc xin với thiên tử và Trấn Nam vương như thế nào, hết thảy đã nói trong biểu; một mặt nhà vua lại sai quan trung lương đại phu Trần Đức Quân và quan triều tân lang Trần Tự Tông mang biểu chương sang sứ nhà Nguyên. Trong biểu nhà vua từ chối: “ Nước thần năm trước mất mùa, dân đang đói, nên không có lương phụng thượng quốc. Còn việc đến Chiêm Thành, từ nước tôi, đường thủy, đường bộ đều không tiện”
Trước khi các ông Trần Đức Quân, Trần Tự Tông lên đường, Trần Nhân tông còn lựa lời an ủi:
- Vì mệnh vua, các khanh phải xông vào đất giặc. Chuyến đi này là muôn khó, lành ít dữ nhiều. Kẻ kia đã rắp tâm đánh ta, thì sự cầu hòa chẳng khác gì việc rủi may trên chiếu bạc. Các khanh liệu mà đối đáp, mềm, cứng tùy lúc, tùy thời, nhưng quyết không để nhục cho vua, cho nước như bọn Trần Di Ái năm trước. Các khanh đi rồi, việc cha mẹ, vợ con ở nhà, triều đình sẽ lo chu tất.
Hai quan chánh phó sứ gạt nước mắt mà lĩnh mệnh. Họ cùng lên đường với hai viên sứ giặc trở lại đất Nguyên.
Tin từ Yên Kinh, từ hành tỉnh Kinh Hồ, từ Lưỡng Quảng do bọn Đỗ Vỹ, Đỗ Hựu đưa về tới tấp: “Quân Nguyên ngày đêm đi như nước chảy xuống phía nam. Tiền quân hiện đang ở. . . đang ở.. Việc chúng xâm lấn Đại Việt là điều không tránh khỏi . “.
Hai vua Trần Thánh tông, Trần Nhân tông lại cho triệu quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn và thái sư thượng tướng Trần Quang Khải về nội điện bàn quốc sự.
Mở đầu Trần Quốc Tuấn tâu:
- Khí thế trong quân hiện thời là khá thuận cho việc kình chống giặc Mông - Thát. Lòng căm giận tới mức không ai là không thích hai chữ “Sát Thát” lên cánh tay. Trong dân thì hồ hởi, nhà nhà đều dốc lòng đưa chồng, đưa con xung quân. Nhờ quốc sách của triều đình, khiến người dân đã có ruộng, lại mấy vụ nay được mùa, dân chúng no đủ, dư dật, cho nên chiến cuộc có nổ ra thì mỗi người dân sẽ là mỗi người lính tự bảo vệ thôn ấp. Ấy là nói về lòng người. Còn việc phân bố binh lực, cắt đặt tướng tài; trấn, chẹn các nơi hiểm yếu, thần đã làm xong xuôi kín nhẹm, xin thượng hoàng và bệ hạ yên tâm. Ngừng một lát, nhìn sắc mặt hai vua, Quốc Tuấn nói thêm - còn một việc nữa xin thượng hoàng cùng bệ hạ lượng xét. Tức là khi quân giặc nhất đán tràn vào cõi, không phải bất cứ nơi nào ta cũng đủ quân đủ lực ngăn giữ. Cho nên sức cho dân chúng, nếu thế không ngăn được giặc thì cho phép lẩn tránh vào rừng rậm hang sâu. Nhưng phải cất giấu lương thực và các đồ vật dụng cần thiết, để khi quân kia có tới cũng không lấy gì mà ăn được. Lại khi gấp quá chẳng kịp cất giấu thì được phép đốt đi. Kế ấy gọi là “KẾ THANH DÔ - tức là vườn không nhà trống. Khiến quân thù đi bất cứ nơi nào trong đất ta, cũng như đi trên sa mạc.
Trong khi hai vua rất mực khen ngợi diệu kế của Hưng Đạo vương thì thượng tướng Trần Quang Khải thầm nghĩ: - “Anh Quốc Tuấn quả là một nhân tài kiệt hiệt, không phải thời nào cũng có được. Từ “Phú quốc cường binh sách” đến “Vạn kiếp tông bí truyền thư”, từ “Dụ chư tì tướng hịch văn” nay lại đến kế “Thanh dã”. Tất cả những mưu thuật đó , cấu thành quốc sách chống giặc Nguyên - Mông của nhà nước Đại Việt mà chỉ xuất phát từ cái tâm của Quốc Tuấn thời thật là việc thế gian hy hữu.
- “Thanh dã!” - vua Nhân tông nhắc lại hai tiếng đó, và khen - Kế ấy thực dễ làm mà thành tựu thì lớn lắm. Tức là ta hãm địch vào đất chết - Ý chú Chiêu Minh thế nào? - Nhà vua quay ra phía Trần Quang Khải, hỏi:
- Tâu hoàng thượng, thần cũng nghĩ như vậy, Quang Khải đáp, và ông thêm - Thần đang ngẫm về các binh pháp và sách lược của Hưng Đạo vương, đã dâng lên hai vua để cứu nước. Thần cứ nghĩ: hay là Trời cho Đại Việt ta một bậc thần tướng để chống lũ cuồng khấu phương bắc?
Trần Thánh tông vuốt râu cười khà khà - Em ta dễ tính quá, vội quy công cho trời. Ta nói thật, nếu không có Yên Sinh vương tốn công nhọc sức tìm thầy giỏi từ bốn phương về giáo dưỡng; lại nếu không có thượng phụ thái sư Trung Vũ vương sớm nhận ra tài năng của anh Quốc Tuấn mà đưa về kinh sư rèn cặp; và nữa, nếu Hưng Đạo không khổ công trau dồi suốt cuộc đời thì làm sao có được sự kiêm thông văn võ. Âu cũng là mệnh trời! Trời thí phúc cho hoàng triều ta. Có nhẽ ý chú Chiêu Minh đúng chăng.
Thánh tông dứt lời, mấy anh em chú cháu nhà vua cùng cười vui Riêng Hưng Đạo đỏ mặt, vì các lời khen mà ông cho là hơi quá.
Tiếng cười vừa dứt, không khí trở lại thật là trang nghiêm ủa một cuộc luận bàn về quân quốc trọng sự.
Vua Nhân tông lại hỏi:
- Quốc phụ và quốc thúc có còn kế sách gì thật hoàn hảo cho công cuộc phòng bị đất nước?
Quang Khải bèn tâu:
- Bẩm thượng hoàng, bẩm quan gia, theo ý thần thì các kế sách từ việc binh, việc lương, đến việc bố phòng binh lực, việc bang giao thảy đều đã có phương lược rõ ràng. Thần dân trong nước đều được vỗ về. Đám sĩ tốt và trai trẻ vừa đây lại được lời “Hịch” của Quốc công khích lệ, khí thế đang hăng. Duy chỉ còn các bậc cao niên trong thôn ấp là chưa được vỗ về. Đám người này tuy không nhiều, nhưng họ lại có tiếng nói thật là hệ trọng trong các tộc họ và trong thôn ấp. Nên chăng, thượng hoàng cho tuyên triệu các bậc bô lão về triều để yên ủi...
Quang Khải vừa tâu về một đại hội các bô lão, Quốc Tuấn đã hiểu ngay tầm rộng lớn của nó. Ông thầm so sánh: Nếu như Đại hội Bình Than tháng mười năm Nhâm ngọ (1282) là để bàn kế sách chống giặc, thì Đại hội bô lão lần này sẽ là quyết sách thắng giặc, bởi nó thể hiện ý chí vua tôi đồng lòng.
Sau một đôi giây ngần ngừ, Thánh tông bèn hỏi:
- Ý anh Quốc Tuấn thế nào? Ý quan gia thế nào?
Nhân tông nói:
- Bẩm phụ hoàng, các vị bô lão trong các trấn, lộ, thôn, ấp, họ sẽ truyền cho con cháu trong các làng xã lòng phấn khích bội phần trong công cuộc chống giặc giữ nước này. Việc thực nên làm, thành tựu sẽ lớn khôn lường. Có điều con đang băn khoăn, ta nên lấy danh nghĩa gì để tuyên triệu. Vì từ thượng cổ, chưa hề có các cuộc hội nghị toàn dân như thế.
Thánh tông lại đưa mắt về phía Quốc Tuấn, như muốn ông cho một lời đoan quyết.
Quốc Tuấn bèn tâu:
- Triều đình lấy danh nghĩa vấn kế các bậc bô lão là hợp lẽ nhất. Xưa nay các việc lớn, không việc gì các triều đại không hỏi ý các bậc cao niên. Vả lại, nếu việc trước chưa có ai làm, nay ta làm, thời nó sẽ đi vào lịch sử như là một việc không tiền khoáng hậu. Hơn nữa, nếu thượng hoàng chấp thuận lời tâu của quan tướng quốc thái úy tưởng cũng nên khai triển cấp kỳ, kẻo không kịp.
Trần Thánh tông nhẩm tính:
- Nay là hạ tuần tháng một. Quân giặc đang ở...
- Dạ tâu, quân giặc đang ở huyện Linh Lăng tỉnh Hồ Nam - Hưng Đạo vương tiếp lời. Và ông nói thêm - Nhanh ra cũng phải hơn một tháng nữa chúng mới tới được biên thùy nước ta. Nếu triều đình mở hội vào đầu tháng chạp, thì mọi việc đều êm đẹp cả.
Quốc Tuấn vừa dứt lời, Quang Khải lại nói:
- Tâu hoàng huynh, tâu quan gia, việc phải làm gấp. Trong lúc này còn làm kíp được việc gì khích lệ cho thế nước nổi lên, thì không nên trì hoãn. Vả lại nếu hoàng huynh cùng quan gia vì một số ít các bô lão mà tuyên triệu về nghị bàn việc nước, lại vì họ mà thết đãi yến tiệc, thì các bô lão sẽ vì thượng hoàng mà khích lệ trăm họ nhảy vào bể lửa để cứu lấy giang san. Đấy chẳng phải là kế đánh vào lòng người sao?
Thấy hai vua đã chấp thuận tới tám chín phần rồi, Quốc Tuấn lại hối thúc thêm:
- Gọi là tuyên triệu các bô lão về triều bàn việc nước, về triều để vua vấn kế, là sách lược triều đình nhún mình để thu phục thiên hạ. Kỳ thực các bô lão về triều là để nghe vua tuyên cáo việc nước, là để thiết chặt mối rường từ thứ dân đến bậc quân trưởng đều đồng lòng giết giặc, cứu nước. Hai vua lấy làm đẹp ý, và việc mở đại hội bô lão được nhà vua lượng định vào đầu tháng chạp, lại chọn điện Diên Hồng, là cung điện to lớn và sang đẹp nhất của hoàng triều làm nơi hội họp.
Cuộc chiến đã gần kề. Bước đi của tử thần ngày mỗi ngày lại nhích thêm lên. Công cuộc kình chống giặc ngoài, toàn dân đã được triều đình dẫn dắt từng bước thật thấu đáo. Nhưng càng gần tới ngày cuộc chiến khai mào, tinh thần dân chúng càng thêm hồi hộp, lo lắng. Và không ít người từ quan đến dân ngấm ngầm khiếp sợ. Chưa ai có thể hình dung ra khuôn mặt gớm ghiếc của chiến tranh. Dẫu rằng toàn dân Đại Việt lấy hết can đảm gồng người lên mà đón đợi nó; song không phải vì thế mà coi thường nó. Vả lại, trong mỗi con người đều có nửa phần phấn khích, và nửa phần kia là lo sợ, là cầu mong cho nó đừng xảy ra. ấy là nói về lòng dân, chớ sĩ tốt thì khí thế bừng bừng, chờ đón, háo hức. Ai ai cũng mong lập chút công với nước. Mấy bữa nay có chiếu của triều đình ban xuống về kế “Thanh dã”. Người ta treo bảng ở khắp các trấn, lộ, châu, quận hoặc giấy dán la liệt khắp nơi, mấy câu lệnh chỉ, ngắn gọn mà đầy đủ, của kế sách kia: “Tất cả các quận, huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh. Nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng. Lại phải cất giấu hết lương thực cùng các đồ có thể dùng vào việc hỏa thực, hoặc nếu không kịp cất giấu thì cho phép đốt phá... khiến quân giặc tới đâu cũng phải chịu cảnh đói khát, khốn đốn”. .
Lại nữa, lời tuyên triệu các bậc bô lão về triều hội vào ngày mùng bảy tháng chạp, tại điện Diên Hồng cứ vang lên từ làng nọ sang xã kia. Khắp thôn cùng xóm vắng, không ở nơi nào trên mảnh đất Đại Việt mà không nghe thấu lời “Hịch” truyền, và chiếu tuyên triệu bô lão về Đại hội Diên Hồng. Càng gần tới ngày mùng bảy, các đoàn người túa về Thăng Long càng đông. Các trấn, lộ, thôn, ấp, giáp kinh thành, các cụ tự đi lấy. Cụ nào cụ ấy đều râu tóc bạc phơ, lông mi trắng xóa, da nhám đồi mồi, tay chống gậy trúc, tay xách nải thâm. Các cụ từ sáu bảy mươi tuổi thường mặc áo dài màu thâm hoặc màu nâu, quần dài nâu, dây lưng đen hoặc nâu, gút thắt về một bên sườn. Vành lưng trước bụng giắt một vuông khăn trầu. Trên đầu, các cụ quấn khăn vành dây bằng lượt màu hồng hoặc bằng nhiễu tím trùm lên búi tóc tròn phía sau gáy; chân thường đi giày cỏ bện hoặc dép mo cau, quai ngang. Với các cụ tuổi xấp xỉ tám mươi hoặc trên tám mươi, làng cử đinh tráng võng đi. Các cụ nằm cáng thường vận áo dài đỏ, quần đỏ, mũ trùm đầu cũng màu đỏ. Khi các cụ bỏ mũ ra, tóc có màu trắng phau như màu nấm mốc, nên trong dân gian quen gọi các cụ bằng một cái tên chung, vừa kính cẩn vừa quen thuộc thân tình: cụ mốc. Các cụ nằm cáng, miệng bỏm bẻm nhai trầu, cây gậy trúc đùi gà, các gióng đốt được hun khói màu nâu đen đặt một bên cáng, bên kia là tráp trầu.
Quan đại an phủ sứ của kinh sư đón khách ở cửa đông và cắt cử các quan chức sắc dưới quyền đón khách về dự Đại hội Diên Hồng tại các cửa tây, nam, bắc. Khách về nườm nượp. Dân chúng kinh kỳ ùa ra đường chào đón khách. Nơi các ngã ba, ngã tư, dân trong phường tự nấu nước chè xanh vào các nồi mười lăm, hai mươi đặt trên các giá gỗ, có cả những chiếc mâm đồng bầy chén tống; lại thêm hàng rá trầu têm cánh phượng, cau tươi bổ tư, hạt bánh dày trắng muốt sẵn sàng mời khách.
Tháng chạp, Thăng Long lạnh giá, cây cối lá rụng thưa dần. Các cây bàng, cây sầu đông lấp ló phía sau những mái nhà tranh, cành trơ trụi như đang thu mình sưởi hơi ấm từ các mái rạ bốc lên mờ mờ như sương, như khói. Từ bến Đông Bộ Đầu bước vào, khách đã nhìn khắp một dặm dài những cây hòe thân mốc trắng, và những chùm quả teo khô trên cành màu nâu cháy. Rặng bưởi nhà quan đại an lóa lên một màu quả vàng au, sai lúc lỉu. Vườn nhà kia đào trụi hết lá, nụ chúm chím đầu cành như báo hiệu một mùa hoa nở rộ, như báo hiệu tết đang về.
Thăng Long rộn lên vì đón khách. Các nhà khá giả thì chăng đèn, kết hoa, nhà ít lực hơn cũng treo trước cửa chiếc đèn lồng hoặc đèn kẻo quân. Các nhà quan, các công đường lại càng nguy nga, rực rỡ bởi đèn, hoa, cờ, phướn. Ngoài những lâu đài, những điện các sang trọng của kinh sư được mở ra đón khách; vua Nhân tông còn cho mở thêm cửa Quốc học viện và cung Cảnh Linh để tiếp rước các bô lão khắp nước về triều hội. Lại đặc ân cho các bô lão tuổi từ tám mươi trở lên được vào nghỉ trong điện Tập Hiền.
Các bô lão đến từ nơi thôn ấp hoặc tận rừng xanh núi thẳm lần đầu tiên được về Thăng Long, lần đầu tiên trong cuộc đời bảy, tám mươi, thậm chí cả trăm tuổi mới được thấy cảnh phồn hoa đô hội. Lần đầu tiên được mục kích những điện các nguy nga, cung thất tráng lệ. Lại được dặt chân lên thềm những lâu đài, điện, các, cung thất kia thì thật ngay trong mơ các cụ cũng không dám ao ước. Thế nhưng, đấy lại là sự thật. Thành thử khi bước lên thềm điện, các cụ vẫn cứ còn ngập ngừng, trông trước trông sau xem có ai quát tháo chửi mắng không.
Vua Nhân tông đã cải dạng lẫn vào với đám quân cấm vệ để nghe ngóng, để dò biết tình thực lòng người. Thấy các cụ cứ đứng vón lại trước thềm cung Cảnh Linh, nhà vua ghép tai viên đô úy nói nhỏ:
- Ngươi cho lính dẫn các cụ vào nghỉ trong cung.
Cùng với đám quân cấm vệ, nhà vua vừa nói vừa thở hổn hển :
- Lão trượng quê ở đâu ta?
- Bẩm ông, tôi ở lộ Hải Đông.
Đến bậc thềm cuối cùng, các cụ mệt quá, đều dừng lại nghỉ. Quân cận vệ bê nước tới mời từng cụ. Tay cầm chén nước nóng bốc khói, mùi trà hương thơm phức. Nhẽ ra trong lúc mệt, khát thì phải uống ngay, nhưng xem ra chưa thấy một cụ nào nhắp môi mà cứ xoay đi xoay lại chiếc chén trong tay, ngắm nghía từ màu men đến các đường hoa văn trang trí, và cả những cảnh vẽ bốn mùa mai, lan, trúc, cúc hoặc sen, le hoặc Bát tiên quá hải...
Nhà vua hiểu được cái gì đang diễn ra trong lòng các cụ, bèn hỏi:
- Thưa các trưởng lão, các trưởng lão về triều hội có vui không, hay vì lệnh vua bắt thì phải đi thôi?
- Đâu có thế. Đâu có thế. Các cụ gần như đồng thanh đáp lời và lắc đầu quầy quậy. Một cụ ngồi cạnh nhà vua đặt chén nước xuống, và tựa cây gậy trúc ngả vào vai rồi nói:
- Bẩm ông, đây là nhà vua cho gọi đám bô lão chúng tôi về dự hội, chớ nhà vua có bắt phải về đâu. Vui lắm !Vui lắm! Vì từ thượng cổ chưa có chuyện này.
- Từ thượng cổ chưa có chuyện này! Một cụ khác nhắc lại.
Các cụ xúm nhau lại góp chuyện thật là vui vẻ, cởi mở.
Nhân tông lại hỏi:
- Các trưởng lão đã biết vua triệu về có việc gì không?
Các cụ nhao nhao trả lời:
- Bẩm ông, chắc đức vua cho bàn quốc sự.
- Sao lão trượng biết vua cho bàn quốc sự?
- Bẩm ông, khắp bốn phương lúc nào cũng vang lên lời “Hịch” truyền. Thế thì ai mà chẳng biết giặc Mông - Thát kia sắp lấn xâm vào cõi.
- Dân tình ta ở nơi thôn ấp có hãi sợ lũ giặc Mông - Thát này không? - Vẫn nhà vua hỏi.
- Sao lại sợ? Ai sợ lũ giặc Mông - Thát? - Các cụ trả lời với vẻ bực bội - Dân vùng tôi ấy à, họ còn muốn moi gan móc mắt lũ giặc kia ra mới hả.
Nhìn gương mặt các cụ đều hiện lên nét hân hoan rạng rỡ, nhà vua biết họ thật lòng, ngài lại lẩn vào trong đám quân cấm vệ rồi lui ra lúc nào không ai biết. Và mãi mãi không ai biết người lính cấm vệ kia lại chính là đức vua của họ.
Sớm ngày mùng bảy tháng chạp năm Giáp thân (1284) từng toán xe ngựa tề chỉnh tới các cung đón bô lão vào điện Diên Hồng. Nhà vua cho bày sẵn tiệc yến ở thềm điện để thết các bô lão.
Thượng hoàng Trần Thánh tông uy nghi trong triều phục hoàng đế, tay cầm cây tích trượng đứng đón các phụ lão ngay trước thềm. Xế một chút, vua Nhân tông cũng mặc một chiếc đại hoàng bào lộng lẫy, nom gương mặt nhà vua rực sáng như thiên thần.
Đại hội này nhà vua gia ân cho các phụ lão không phải rập đầu lạy mà chỉ cúi chào. Lại khi nói cũng cho miễn lễ, không phải quì.
Hai vua thân nắm tay từng bậc cố lão và nói lời an ủi. Các cụ vừa lóa mắt trước cảnh vàng son rực rỡ, vừa lóa trước lung linh ánh bạch lạp. Nhưng xúc động nhất là được tận mắt nhìn thấy hai đức vua mặt rồng rạng rỡ, như thế nước đang lên. Không những thế, vua còn tay bắt mặt mừng, cho nên không cụ nào cầm được nước mắt. Song đó là những giọt nước mắt hiếm hoi trong cuộc đời già nua của các cụ. Bước vào thềm điện rồi, nhiều cụ vẫn còn bàng hoàng như mơ. Nhiều cụ cứ rờ rờ mãi lên những cây cột son to tướng. Có chỗ tới bốn cụ nối vòng tay nhau ôm vẫn chưa khít cây cột, to hơn rất nhiều so với cột đình làng. Những hàng cột tròn sơn son, khắc họa những con rồng vàng quấn quanh cột từ chân tới nóc điện, miệng phun đầy châu ngọc đang ở thế vút bay lên.
Khi các cụ đã an tọa gần xong, thì Chiêu Thành vương dẫn một cụ già do người của thượng tướng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đưa từ lộ Đà Giang về. Ấy là cụ già người Man độc nhất trong Đại hội. Cụ vận quần áo với nhiều màu sặc sỡ tựa bộ lông công. Vua Nhân tông vội đỡ cụ tới ngồi cạnh hai cụ già khác trên một hàng ghế lộng lẫy gần vua. Đó là cụ Mốc người Thanh Hóa chín mươi chín tuổi, và cụ Mốc người miền biển lộ Hải Đông, một trăm lẻ sáu tuổi, là người cao tuổi nhất nước; cụ người Man mới có chín mươi bảy tuổi.
Ban nhạc cung đình vừa tấu xong khúc nhạc thiều, thì vua Trần Thánh tông bước lên đài can vẫy chào các bô lão. Rồi vua dời gót đi về phía ba cụ Mốc cao tuổi nhất, và ban cho mỗi cụ một chiếc áo đỏ, một chiếc mũ đỏ bằng vóc đại hồng. Các cụ vừa reo hò vừa hô: Đức vua vạn tuế !... Vạn vạn tu... ế...! Nhà vua mời các cụ vừa ăn yến vừa nghe nói, bàn quốc sự. Đức vua không giấu giếm tình thế quân Mông - Thát sắp tràn vào cõi, và lực lượng hùng mạnh của chúng đã làm nghiêng đổ biết bao thành trì, hủy diệt biết bao quốc gia to lớn từ đông sang tây, từ bắc tới nam. Mênh mông như nước Trung Hoa cũng bị chà nát dưới vó ngựa Hồ. Vua tôi bị giết, bị cầm tù, thần dân cúi đầu làm nô lệ. Nhà Tống tiêu vong.
Dừng lại, nhà vua nhìn khắp các bô lão, thấy gương mặt các cụ nhất loạt hướng về ngài. Không khí triều hội im phăng phắc. Các cụ mải nghe tới mức đức vua đã mời dùng yến hai ba lần, vẫn chưa có cụ nào cầm đũa.
Trần Thánh tông lại nói:
- Đội quân hùm sói Mông - Thát kia nay đã gần kề biên ải nước ta, sớm tối chúng sẽ tràn vào tàn phá cõi bờ ta. Sức quân, sức dân trong nước thế nào ta đã nói, và các trưởng lão đây cũng đã biết. Liệu ta có kháng được giặc mạnh không ? Các bậc trưởng lão đây thay mặt cho toàn thể quốc dân, triều đình xin hỏi: “TA NÊN HÒA HAY NÊN ĐÁNH?!” - giọng Thánh tôn dằn xuống, nghe xót đau thống khổ.
Có người ấn vào tay cụ Mốc lộ Thanh Hóa bát yến sào.
Chợt nghe tiếng hét như sấm bên tai, cụ đánh đổ cả bát yến sào trên bàn ngà, liền đứng dậy hô theo:
- Đánh! - Muôn người như một vút lên tiếng thét - Xin bệ hạ cho đánh!
Đánh! Đánh ! Đ... á... nh ! Tiếng hô ầm vang thống thiết như sóng cồn bão tố. Điện Diên Hồng - nơi biểu hiện ý chí của muôn dân đang nổi cơn thịnh nộ.
Giữa lúc đó, quan hàn lâm học sĩ Quốc sử viện Lê Văn Hưu đang tựa lưng vào cột điện quan sát, bỗng cúi xuống, tay run run mở tráp, lấy giấy bút chép sự việc này vào quốc sử.

- HẾT -

Tiểu thuyết lịch sử - Hoàng Quốc Hải
NXB Phụ Nữ 2006
__________________
“Đường đi khó , không khó vì ngăn sông cách núi
mà khó vì lòng người ngại núi e sông”
--------------
Nguyễn Dương Tri Thức
VCB:0121000448170 - Dương Thúy Phượng
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
Trả lời

Công Cụ
Hiển Thị Bài

Quyền hạn của Bạn trong mục này
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

BB code đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến:

Những Đề tài tương tự
Ðề Tài Người Tạo Đề Tài
Chuyên Mục
Trả Lời Bài Mới Nhất
Phong bì VS "1000 Thăng Long - Hà Nội" gắn tiền xu Poetry Ấn phẩm Viet Stamp 54 29-11-2014 16:52
Gabriel García Márquez - Tác giả tiểu thuyết "Trăm năm cô đơn" HoaHoa Nhân vật Thế giới 0 24-05-2014 15:33
Bộ tem "Thăng Long Hà Nội-truyền thống chông ngoại xâm" lantham_0072005 Chung tay ủng hộ Viet Stamp 7 27-10-2011 15:23
Về thời gian và địa điểm phát hành đặc biệt 2 bộ tem "1000 năm Thăng Long - Hà Nội: Xây dựng và phát triển" và "Kỷ niệm 50 năm Hội Tem Việt Nam" Poetry Tem Việt Nam mới phát hành 5 04-10-2010 00:45
MC "1000 năm Thăng Long - Hà Nội" & "50 năm Hội Tem Việt Nam" Poetry Ấn phẩm Viet Stamp 12 01-10-2010 15:34



©2007-2024 Diễn đàn Viet Stamp
Cơ quan chủ quản: Câu lạc bộ sưu tập tem Viet Stamp (VSC)
Giấy xác nhận cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến số 87/GXN-TTĐT
do Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử cấp ngày 31-08-2011
Chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Anh Thi - Chủ nhiệm VSC
Bản quyền thuộc VSC. Địa chỉ: 2/47 Phan Thúc Duyện, Phường 4, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Điện thoại: (08) 38111467 – Website: vietstamp.net.vn – Email: vietstamp.net@gmail.com – Hotline: 0918 636 791
Vui lòng ghi rõ nguồn “Viet Stamp” khi phát hành lại thông tin từ diễn đàn này.
--------------------
Mã nguồn: vBulletin v3.8.3 & Copyright © 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.
Diễn đàn Viet Stamp có giấy phép sử dụng từ Jelsoft Enterprises Ltd.