Xem riêng 01 Bài
  #4  
Cũ 07-09-2014, 19:55
HanParis's Avatar
HanParis HanParis vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 19-02-2013
Đến từ: Paris - France
Bài Viết : 4,031
Cảm ơn: 10,439
Đã được cảm ơn 20,202 lần trong 3,980 Bài
Mặc định

Vị trí kinh rạch vùng Chợ Lớn


Hình 45: Bản đồ vị trí Kinh rạch vùng Chợ Lớn.


Những kinh rạch này đã bị lấp qua nhiều thời kỳ do tốc độ đô thị hóa và nhu cầu vận chuyển trên đường bộ tăng lên và do dó những cây cầu xưa cũng biến mất theo.



Có thể chia hệ thống kinh rạch trong vùng chính:


A) Kinh Tàu Hủ đoạn từ Xóm Chỉ (đường Tản Đà đến Rạch Lò Gốm)


B) Rạch Chợ Lớn (đoạn chảy từ Xóm Chỉ (hình 19) hướng vế Bắc vào Chợ Lớn, Tây đến giáp nước Rạch Chợ Lớn-Rạch Lò Gốm và kinh Vòng Thành (đường Nguyễn Thị Nhỏ ngày nay)


C) Kinh Bải Sậy (kinh Hàng Bàng, Canal Bonard)


D) Kinh Vòng Thành (Bao Ngạn- Canal de Ceinture) được đào năm 1875

A-Rạch Chợ Lớn


Rạch Chợ Lớn từ kinh Tàu Hủ đi lên trung tâm Chợ Lớn nối kinh Phố Xếp, sau đó hướng Tây đến rạch Lò Gốm gần đồn Cây Mai-cạnh kinh Vòng Thành. Khúc gần Cầu Đường là bến Gaudot nơi có trụ sở nhà buôn Thông Hiệp của Quách Đàm. Gaudot là tên của một trung úy hải quân Pháp, chỉ huy một nhóm thủy binh đánh đồn Kỳ Hòa ngày 25/2/1861, sau làm phó quản trị thành phố Chợ Lớn và năm 1868 chỉ huy cảng thương mại Sài Gòn. Gaudot mất ở Côn Đảo vì bệnh năm 1872 .


Năm 1955 Rạch Chợ Lớn bị lấp biến thành đường Khổng Tử, nay là đường Hải Thượng Lãn Ông và Trương Tấn Bửu, nay là Lê Quang Sung.


Kinh Phố Xếp đào năm 1778, cũng bị lấp thành đường Tổng Đốc Phương nay là Châu văn Liêm.


Sau khi rạch Chợ Lớn bị lấp, tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (4). Rạch Chợ Lớn trên khúc Quai de Gaudot là Quai de Fou-kien (bến Phúc Kiến) sau khi lấp đi làm thành đường Trang Tử trước bến xe Chợ Lớn ngày nay. Khu đường Hải Thượng Lãn Ông, Trang Tử và Phùng Hưng là khu mà ngày nay vẫn còn nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến cư ngụ. Ở đây, góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng, có miếu Nhị Phủ (chùa ông Bổn) của người Phúc Kiến và kế miếu là trường trung học Trần Bội Cơ (trước gọi là Ecole de Foukien). Trường nằm trong một phần đất của miếu, được xây từ đầu thế kỷ 20 (1907) rất đẹp với kiến trúc Pháp. Gần đấy ở góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Đỗ Ngọc Thanh ngày nay có một kênh nhỏ (nay đã bị lấp) gọi là kinh Bến tắm ngựa vì nơi đây các ngựa xe thổ mộ làm chổ nghĩ ngơi và tắm ngựa.

Cầu Đường và cầu Minh Phụng bắc ngang Rạch Chợ Lớn không tìm được hình ảnh xưa.

B-Kinh Tàu Hủ


Vị trí các cầu bắc ngang kinh Tàu Hủ (rạch Bến Nghé)



Hình 46: Vị trí các cầu vùng Chợ Lớn



Cầu Xóm Chỉ (Hình 46 Chú thích A)




Hình 47: Cầu Xóm Chỉ 1909



Hình 48: Cầu Xóm Chỉ 1968


Vào năm 1859 khi quân Pháp tấn công Sàigòn, tàu chiến Jaccaréo của Pháp đã bỏ neo trên Kênh Tàu Hủ, án ngữ con kênh ngay khoảng đầu đường Tản Đà, tức là ngay vị trí cầu Xóm Chỉ này. Về sau để kỷ niệm sự kiện này, người Pháp đã đặt tên con đường này là đại lộ Jaccaréo, tức là đường Tản Đà ngày nay. Bây giờ nó chỉ còn là một con đường nhỏ, ít người biết đến. Hình trong postcard dưới là đường Jaccareo từ phía kinh Tàu Hủ nhìn vào, có thể người chụp hình đã đứng chụp từ trên đầu cầu Xóm Chỉ. Cuối con đường này là Tòa hành chánh thành phố Chợ Lớn (sau này là khu vực trường Đại học Y Khoa Sài Gòn).



Hình 48a : Hình chụp đường Jaccaro (Tản Đà) từ đầu cầu Xóm Chĩ


Cầu Chà Và (hình 46 chú thích B)


Hình 49: Cầu Chà Và 1955



Hình 50: Cầu Chà Và


Cầu Chà Và (B) bắc qua kinh Tàu Hủ nối đường thông thương vùng trung t âm Chợ Lớn vớiI Xóm Củi , rồi qua cầu Nhị Thiên Đường đi Cần Giuộc Bình Chánh. Vùng này xưa có nhiều nguời Ấn sinh hoạt , lập phố bán vải vóc . Người Việt gọi là nguời Chà. Bên phiá bến Binh Đông có rạp hát Phi Long đăc biệt hay chiếu phim Ấn Độ. Rạp này nay là tiệm sách trên đường Lý Thái Tổ (bến Bình Đông).
Cũng nên biết ngườì Việt thời bấy giờ gọi nguời có nước da ngâm đen là người Chà, tuy nhiên , ngoại trừ những loại nguời Chà đến Vietnam có chủng giống Java ở Nam Dưong, loại nguời Chà mà người Việt Nam sinh hoạt chung đụng là người Ấn Bombay chuyên về buôn bán vải vóc tơ lụa ở vùng thương mại Chợ lớn và loại Chà Chetty làm nghề cho vay ở vùng Saigon, thường là dân có gốc tịch Anh, Pháp.


Hình 51: Cầu Malabars và cầu Quới Đước (C)



Cầu lấy tên làng xưa Quới Đước, khu vực nằm dọc hai bờ sông Yunan (Vạn Tượng) ngày nay.




Hình 52: Xe điện chạy lên dốc cầu Malabars.


Đi từ cầu Chà Và xuống rạch Lò Gốm , dọc theo kinh Tàu Hủ hai bên là đường , đường Bến Lê Quang Liêm và đường bến Bình Đông, ghe đủ loại neo ở đây, bên phiá Lê Quang Liêm có nhà máy rượu Bình Tây, phiá Bến Bình Đông thì có nhà máy chế biến lông vịt ra mền (còn nhớ mấy ông “cắc chú” rao mua lông vịt không ?)
Dọc theo hai bến có rất nhiều kho, vựa chứa luá, gạo. Nhà máy rượu nấu rượu dùng trấu thải ra từ nhà máy xây lúa cũng ở dọc theo kinh nên tiện cả đôi bề chỉ có điều ô nhiễm không tránh được – nhung ai để ý đến vấn đề ô nhiểm thời bây giờ?!


Cầu Bình Tây


Cầu đi bộ bắc ngang kinh Tàu Hủ nối qua bến Bình Đông (đường Bình Tây với đương Nguyễn Chế Nghiả) , gần vị trí cuả hảng Bột mì (bến Bình Đông) ngày xưa có tên là Sakybomi ( viết tăt Saigòn kỹ nghệ bột mì) cung cấp cho lò bánh mì và tiệm bánh vùng Saigon ChoLon, bây giờ vẩn còn với tên mới công ty Bột Mì Bình Đông.



Hình 53: cầu Bình Tây



Hình 54: Cầu Bình Tây với ghe lúa


Cầu bắc ngang kinh Tàu Hủ nối đường Bình Tây với bến Bình Đông (đường Nguyễn Chế Nghỉa). Cầu này không còn ở vị trí này nữa.
Từ cầu Bình Tây đi về phía rạch Lò Gốm có câu chử U (còn gọi là cầu Bột ). Cả hai cầu này gìờ không còn nữa.


Cầu Chử U
Cách công ty Bột Mì một khoảng chừng 200m là vị trí của câu cầu chử U, bắc ngang kinh Tàu Hủ, cầu sắt nhưng sàn cầu bằng “ván đóng đinh, gập ghình khó qua”, dành cho người đi bộ và xe hai bánh, được xữ dụng đến sau 75 thì bị phá hủy.
Đi xuống thêm chút nữa là công ty chế biến lông vịt.



Hình 55: Cầu Chữ U



Hình 56: Cầu chử U xưa thập niên 50.

Qua khỏi cầu chử U bên phiá Lê Quang Liêm (sau 75 Trần Văn Kiểu bây giờ là Vỏ Văn Kiệt) hướng về gần rạch Lò Gốm có nhà máy rượu Bình Tây sản xuất rượu đế lớn nhất nước Việt Nam. Công ty được xây dựng năm 1900 và đưa vào sản xuất năm 1902 dưới sự quản lý độc quyền của tập đòan SFDIC (Société Francaise des Distilleries de l’Indochine) Pháp.


Từ 09/5/2005 Công ty rượu Bình Tây đã chính thức chuyển thành Công Ty Cổ Phần Rượu Bình Tây- trực thuộc Tổng Công ty Bia – Rượu-NGK Sài Gòn (SABECO).


C- Kinh Bải Sậy-Hàng Bàng-Kinh Bonard

Đường nước nằm song song với cầu Qưới Đước là rạch Bến Nghé, và đường nước chảy qua gầm cầu là kinh Bải Sậy –Hàng Bàng, ngưới Pháp gọi kinh này là Canal Bonard, có khi là Arroyo Chinois.
Kinh Bải Sậy ở đầu ra rạch Lò Gốm, người điạ phương gọi là Hàng Bàng vì hai bên kinh có trồng dảy cây Bàng (giống như đường Hàng Xanh (đường Bạch Đàng); đường Hàng Keo (Phạm Đăng Lưu), nên cũng gọi là kinh Hàng Bàng. Trước khi hợp lưu với rạch Lò Gốm, có một cầu sằt đi bộ bắc ngang kinh, nguời địa phương gọi là cầu Kinh ?.



Hình 57: Không ảnh vị trí các kinh chánh trên kinh Bải Sậy (Hàng Bàng) . Ảnh chụp khoảng đầu thập niên 1950.


Quang cảnh của kinh Bải Sậy (Bonard) nhộn nhịp với khu nhà thương mại dọc hai bên kinh, với dân thương hồ và thuyền buôn vận chuyển hàng hóa, nông phẫm từ khắp nơi đến.


Cầu Ba Miệng-Ba Chưn-Ba Cẳng (tham khảo vị trí hình 46 chú thích D)



Hình 58: Cầu Ba Cẳng nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức


Cầu Ba Cẳng-có tên gọi địa phương tuỳ thời khác nhau như Khâm Sai, Ba Miệng, Ba Chưn nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức ( con đường này chạy thẳng ở cuối rạch Bãi Sậy, hướng về Bưu Điện Chợ Lớn Quân 5). Đi về phía phải của Cầu Ba Cẳng trong hình này vài chục mét là tới chợ Kim Biên ngày nay, còn về phía trái ra kinh Tàu Hủ. Hình này chụp khoảng đầu thập niên 1950, ngày nay cầu này không còn nữa. Cái cẳng trong hình này là cẳng đi xuống đường Yunnan, tức Vân Nam (sau 1955 là đường Vạn Tượng), còn hai cẳng kia thì bắc qua hai con đường hai bên rạch Bãi Sậy: bên trái xuống bến Bãi Sậy, bên phải xuống bến Nguyễn Văn Thành nơi đầu đường Cambodge (sau 1955 là đường Kim Biên).



Hình 59: Ghe neo dọc theo đoạn kinh bải Sậy, hình chụp đừng trên cầu thang Gò Công


Cầu Ba Cẳng ở Chợ Lớn, gần phía sau chợ Kim Biên nay không còn nữa. Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, nay lấp thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn Khoẻ quận 6. Cầu Ba cẳng nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập.
Saigon xưa nhiều kinh, rạch, ao hồ vừa có giá trị giao thương, vừa là chỗ thu nước tràn khi mưa lớn, triều cường. Người xưa (Pháp lẩn Việt) thiết kế hệ thống thoát nước Saigon – Chợ Lớn – Gia Định cho 500,000 dân để giảm thiểu lũ lụt. Ngày nay di dân từ khắp nơi nhất là từ Bắc , Bắc Trung, áp lực nhà cưả đem đến việc lấn chiếm, lấp, thay bằng cống hộp đã dẩn đến hậu quả “đường biến thành sông” mổi khi mưa lớn kéo dài một hai giờ, tệ hại hơn nữa nếu đúng lúc triều cương.
Ngày nay rạch Bãi Sậy đã hầu như bị lấp hoàn toàn. Phía sau chợ Kim Biên vẫn còn một đoạn rạch rất ngắn khoảng 30m, rộng 3m, trước đổ ra thẳng kênh Tàu Hủ. Cầu Palikao trở thành đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Ba Cẳng đã sập, không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một cầu gần Bắc Kinh, gọi là Bát Lý Kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh.



Hình 60: Cầu Ba Cẳng với ông Tàu bán gánh dạo


Đây là tấm hình hiếm hoi còn sót lại của cầu Ba Cẳng, một cây cầu chẳng có mấy quan trọng, nhưng nó đã trở thành một phần của lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn xưa, với cái tên nghe thật dân dã và cũng có lắm chuyện xưa liên quan đến nó, như chuyện “Dân chơi cầu Ba Cẳng” của nhà văn Trương Đạm Thủy
Pont des 3 arches (Cầu Ba Cẳng) xây bởi công ty Brossard et Mopin (công ty này cũng xây Chợ Bến Thành ở Sài Gòn vào năm 1914). Nhà báo Nguyễn Văn Sâm và nhà bên vợ (em gái ông Trương Văn Bền) bỏ tiền đứng ra xây cầu.


Cầu Gò Công



Hình 61: Cầu Gò Công


Cầu có nấc thang cho người đi bộ bắc ngang kinh Bải Sậy trên đường Gò Công.

Cầu Palicao (Palikao) - Cầu Ngô Nhân Tịnh


Hình 62: Cầu Palikao. Hình chụp ghe sắp đi qua vòm giữa cầu
Palikao hướng về cầu Ba Cẳng. (cầu Palikao có 3 vòm, xem hình 56)

Xin lưu ý :Theo nguyentichnghia là cầu Kinh Lò Gốm “-người chụp ảnh đứng trên bờ kinh Lò Gốm đối diện với cầu , phía dưới chân cuả người chụp là đám cỏ cây mọc ven bờ kinh.”


Người Pháp đã đặt tên là Palikao (Pinjin Bālǐqiáo ), có lẽ là do hình dáng của nó đã gợi cho họ hình ảnh của cây cầu Bát Lý Kiều ở bên Tàu.


Palikao là phiên âm Pháp ngữ tên tiếng Hán “Bát Lý Kiều”, tức là Cầu 8 Dặm – Eight-Mile Bridge, một cây cầu lịch sử ở Bắc Kinh, nơi đã diễn ra trận chiến ác liệt giữa liên quân Anh-Pháp và khoảng 30.000 quân Trung Hoa trong cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, và họ đã chiếm được cầu này vào ngày 21-9-1860, dẫn tới chiếm được Bắc Kinh sau đó. Theo các sử gia, phía TQ tổn thất nặng nề, thương vong khoảng 25.000 quân trong khi phía Pháp chỉ bị thương vong 1.000

người.


Cầu Bát Lý Kiều của Trung Quốc ngày nay:

Hình 63: Cầu Bát Lý Kiều, Baliqiao (Chinese: 八里桥; pinyin: Bālǐqiáo), Bắc Kinh (Trung Quốc)



Hình 64: Quang cảnh kinh Hàng Bàng (Bải Sậy) nhìn từ trên cầu


Palikao về phiá cầu Gò Công, cầu Ba Cẳng
Ngày xưa dưới chân cầu Palikao có rạp chuyên hát bội Palikao, nhưng cũng có gánh cải lương dọn về đây. Vùng này có nhiều cửa hàng của người Tàu, có món ăn rất đặc biệt gọi là “hầm dỉ Triều Châu “ -cá mặn nổi tiếng ở Chợ Lớn.


Theo bác Nguyễn Thành Long trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán gần rạch Bãi Sậy, mà tác giả đã có dịp tiếp xúc, thì giữa cầu Ba Cẳng và cầu Palikao xưa kia có 5 kiosque bán trà, chuối, nước giải lao cho các tàu đi trên rạch Bãi Sậy. Cầu Palikao bị dẹp và trở thành đường Ngô Nhân Tịnh vào năm 2003, cùng khoảng thời gian cầu Ba Cẳng bị sập và phá bỏ hoàn toàn.



Hình 65: Rạp Hát Palikao ngày xưa trên đường Ngô Nhân Tịnh.


Cầu Lò Gốm

Cầu Lò Gốm bắc ngang rạch Lò Gốm ngày nay gần giao điểm với kinh Hàng Bàng.



Hình 66 : Cầu Lò Gốm


Đây là đoạn kinh Hàng Bàng cuối cùng trươc khi trở thành đường Bến Lò Gốm.


Hinh 67: Kinh Bải Sậy ngày nay, nhìn từ cầu đi bộ Gò Công.




Cầu bắc ngang kinh Tẽ

Kinh Tẽđược đào vào năm 1905 bắt đầu từ sông Sàigòn đến cầu Chử Y nhằm đáp ứng nhu cầu lưu thông cuà thương thuyền buôn bán vào rạch Tàu Hủ. Gọi là Tẽ bới kinh tẽ từ sông Sài Gòn. Kinh dài 4360m.


Cầu Tân Thuận


Hình 68: Cầu Tân Thuận 1967


Cầu Tân Thuận 1 nối đường Huỳnh Tấn Phát quận 7 với đường Nguyễn Tất Thành – quận 4. Cầu dài 241 m, lòng cầu rộng 8 m, mỗi lề 1,25 m. Cầu được xây từ thời Pháp thuộc sau khi đào kinh Tẻ năm 1905. Cầu được sửa chữa lớn năm 1992. Năm 2005, cầu lại xuống cấp, Sở Giao thông Công chánh thành phố giao cho Công ty Freyssinet International at Compagnie của Pháp tiến hành sửa chữa, nâng cấp cầu. Năm 2008, cầu lại tiếp tục được sửa chữa để nâng tải trọng lên 30 tấn. Hiện nay, cầu cho phép các loại xe lưu thông một chiều từ quận 7 sang quận 4.


Cầu Tân Thuận đi xuống Phú Xuân, Nhà Bè chỉ có sau khi kinh Tẽ giáp nối s ông Saigòn được đào thời Pháp khoảng 1905-06. Đoạn từ cầu chử Y được đào song song với rạch Tàu Hủ người Pháp đặt tên là Canal de Doublement, được dịch ra là Kinh Đôi. Thời chưa có cầu, từ Saigon xuống Nhà Bè phải qua đò.


Cầu Tân Thuận liên hệ với chuyện tiểu trừ lực lượng Bình Xuyên cúa

Bảy Viễn năm 1955.


Ngày 13 tháng hai năm 1955, quân lính của tướng Cao Đài Trình Minh Thế chính thức sát nhập vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa, còn Trình Minh Thế nhận hàm thiếu tướng. Trong chiến dịch loại bỏ lực lượng Bình Xuyên, ông dẩn quân tiến đánh quân Bình Xuyên tập trung bên Cầu Tân Thuận.


Trịnh Minh Thế ngồi xe Jeep đậu dưới dốc cầu Tân Thuận chỉ huy quân đội Cao Đài Liên Minh vượt cầu đánh quân Bình Xuyên đang xuống xà-lan rút ra Rừng Sác. Lễ xuất quân tảo thanh Bình Xuyên của tướng Thế diễn ra trên bãi đất trống ở rìa Đồng ông Cộ, không xa mấy chợ Bà Chiểu.


Không có xe G.M.C. (loại xe chở lính của Mỹ viện trợ cho QLVNCH), Thế đã phải xung công xe chở heo để chở binh sĩ. Tại cầu Tân Thuận, lính Cao Đài mấy lần vượt cầu đều bị đánh bật lại. Chỉ huy quân Bình Xuyên ở bên kia cầu là Bảy Môn. Sau khi rút từ cầu Nhị Thương Đường, cầu Chữ Y, cầu Rạch Ong, Bảy Môn tập trung quân số cố thủ cầu Tân Thuận chặn quân Cao Đài tràn qua. Ông kết hợp súng cối của bộ binh và đại liên các giang đỉnh trên Kinh Tẻ bắn xối xả vào hai chục xe heo chở đầy lính Cao Đài ở bên kia cầu


Trong khi chỉ huy Tướng Trình Minh Thế bị một viên đạn carbin bắn tỉa bắn vào sau gáy. Vụ giết người này không bao giờ được làm sáng tỏ, một số người đổ lỗi cho phía Pháp, trong khi một số người khác cho rằng chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã làm việc này. Hoàn cảnh cái chết của ông cũng gây nhiều tranh cãi, khi có nhiều thông tin khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thời gian, địa điểm, vết thương gây nên cái chết của ông. Sau khi chết, tên ông được đặt cho con đường ở Quận 4 Sài Gòn cho tới năm 1976.


Kinh Đôi (Canal de Doublement)

Kinh Đôi đước đào nổi tiếp Kinh Tẽ bắt đầu từ cầu chử Y xuống đến sông Cần Giuôc khoảng 1896-8 song song với kinh Tàu Hủ nhằm đáp ứng nhu cầu thuận tiện hóa ghe thuyền chuyên chở nông phẩm từ miền Tây.


Cầu Nhị Thiên Đường là cây cầu bắc qua kênh Đôi, thuộc địa phận Quận 8 hiện nay. Cầu được xây dựng vào những năm 1925 là điểm nguồn của Quốc lộ 50 và được đổ bê tông theo kiến trúc hiện đại. Cầu này nối liền lưu thông từ Chợ Lớn sang Cần Guộc, Bình Chánh.



Hình 69:Cầu Nhị Thiên Đường trên kinh Đôi
Vị trí cầu Nhị Thiên Đường, xin tham khảo hình 46 chú thích O.


5 - Kinh Vòng Thành-Canal de Ceinture.

Kinh này được đào năm 1875 theo quy hoạch của Coffyn , mục đích tối hậu là nối rạch Thị nghè ( Arroyo de l’Avalance) với kinh tàu Hủ ( Arroyo Chinois) thông qua rạch Chợ Lớn (không nên nhầm với Kinh Tàu Hủ) để hoàn thành đường nước bao bọc, biến Saigon Chợ Lớn thành một cù lao-Bắc có rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalanche) ; Nam có rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ) Arroyo Chinois; Đông có sông Saigon (rivière de Saigon ) và Tây có Kinh Vòng Thành (Canal de Ceinture).
Theo báo cáo “Monographie de la Province de Gia-Định 1902”, kinh đào năm 1875 , dài 7km, bề rộng 10m, sâu 3m, nhưng cho đến nay 1902 , kinh chưa hề được xữ dụng vì nạn bùn lấp, vùng Phú Thọ đáy sông bùn lên cao hơn mực thủy triều.


Hình 70: Bản đồ 1962 với Kinh Vòng Thành (Bao Ngạn)


Khảo bản đồ Saigon Chợ lớn 1962, kinh Vòng Thành đầu nguồn từ chổ giáp nước cuả Rạch Lò Gốm và rạch Chợ Lờn, cuối nguồn là rạch Cầu Kiệu gần cầu Công Lý –không phải là gần cầu Kiệu ở Phú Nhuận.
Kinh Vòng thành đã được thực hiện năm 1875, nhưng sau đó đã bị bùn lấp nhanh chóng, nên không được xử dụng thực tế (Monographie de la Province de Gia- Định 1902, trang 19 ) . Một vài đoạn kinh vẫn còn có nước-như đoạn trong bản đồ chạy ngang đồn Cây Mai (bây giờ là đường Nguyễn thị Nhỏ).


Lò siêu ở sau đồn Cây Mai cũng dùng Kinh Vòng Thành để ra rạch Chợ Lớn. Nay rạch Kinh Vòng Thành đã cạn và lò siêu cũng thôi hoạt động (theo Vương Hồng Sển-Sàigon năm xưa 1960).


Y Nguyên Mai Tran 6/2013

Hàn : Nhiều cầu quá nên tác giả hình như quên... Cầu Thối Phú Lâm?

Nguồn : http://maivantran.com/2013/11/20/ke-...truoc-1975-p2/
__________________
3T -> Thân Thiện - Trí Thức - Tình Nghĩa

Trăm Năm Trong Cõi Người Ta
Tem Bì Bưu Ảnh Là Moa Ưa Rùi
Văn Chương Súng Ống Nửa Mùa
Chõ Mồm Một Tí Nói
Đùa Ace Ơi!

Bài được HanParis sửa đổi lần cuối vào ngày 07-09-2014, lúc 19:58
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
5 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn HanParis vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
manh thuong (08-09-2014), nam_hoa1 (08-09-2014), NHL-2014 (07-09-2014), Poetry (07-09-2014), Tien (08-09-2014)